Xem tại:
https://sjjs.edu.vn/ngon-su-nguoi-noi-loi-hy-vong/
Abstract
Trong dòng lịch sử dân Chúa, những vị ngôn sứ luôn được mời gọi trở nên người đồng hành và hướng dẫn dân Chúa. Vị ngôn sứ vừa là người thấu hiểu và mang lấy nỗi lòng của dân, khẩn cầu cho dân, vừa là vị trung gian thực thi sứ mạng nói Lời của Chúa cho dân. Có khi thông điệp Chúa gửi đến dân ngang qua vị ngôn sứ là lời lên án và sửa dạy. Nhưng cũng có khi sứ điệp ấy là lời đem lại hy vọng và an ủi cho dân trong những hoàn cảnh bi đát và tuyệt vọng nhất. Trình thuật Ed 37,1-14 là một ví dụ minh họa rõ nét sứ mạng ấy của vị ngôn sứ Ê-dê- ki-en, là người nói lời hy vọng.
Để tìm hiểu chân dung vị ngôn sứ như là người nói lời hy vọng, trước hết bài viết sẽ tìm hiểu khái quát tác giả tác phẩm và cấu trúc của Ed 37,1-14 (phần 1). Thứ đến, bài viết sẽ phân tích về hoàn cảnh của dân Ít-ra-en (phần 2). Kế đó, bài viết tiếp tục với phần tìm hiểu những đặc nét của chân dung vị ngôn sứ – người nói lời hy vọng cho dân (phần 3), và đi đến một vài phản tỉnh áp dụng sau cùng.
Dẫn Nhập
Trong dòng lịch sử dân Chúa, những vị được kêu gọi làm ngôn sứ có vai trò
và vị trí đặc biệt quan trọng. Ngôn sứ là người đồng hành và hướng dẫn dân
Chúa. Vị ngôn sứ luôn thấu hiểu và mang lấy nỗi lòng của dân, khẩn cầu cho dân.
Đồng thời, vị ngôn sứ còn là người trung gian thực thi sứ mạng nói Lời của Chúa
cho dân. Có khi thông điệp Chúa gửi đến dân ngang qua vị ngôn sứ là lời lên án và
sửa dạy. Nhưng cũng có khi sứ điệp ấy là lời đem lại hy vọng và an ủi cho dân
trong những hoàn cảnh bi đát và tuyệt vọng nhất. Bằng lối trình bày vận dụng
nhiều biện pháp văn chương, sử dụng nhiều hình ảnh và hành động tượng trưng,
trình thuật Ed 37,1-14 là một ví dụ minh họa rõ nét sứ mạng ấy của vị ngôn sứ
Ê-dê-ki-en, là người nói lời hy vọng.
Để tìm hiểu chân dung vị ngôn sứ như là người nói lời hy vọng trong trình
thuật Ed 37,1-14, trước hết bài viết sẽ tìm hiểu khái quát tác giả tác phẩm và
cấu trúc của Ed 37,1-14 (phần 1). Thứ đến, bài viết sẽ phân tích về hoàn cảnh của
dân Ít-ra-en (phần 2). Kế đó, bài viết tiếp tục với phần tìm hiểu những đặc nét
của chân dung vị ngôn sứ - người nói lời
hy vọng cho dân (phần 3), và đi đến một vài phản tỉnh áp dụng sau cùng.
1.
Tác Giả - Tác Phẩm Và Cấu Trúc Bản Văn
1.1. Tác Giả - Tác Phẩm
Ngôn sứ
Ê-dê-ki-en thuộc nhóm người Ít-ra-en bị bắt đi trong cuộc lưu đày lần thứ nhất
năm 597. Ông thuộc tầng lớp thế giá, có trình độ, và là một tư tế đền thờ. Sau bốn
năm trên đất lưu đày Ba-by-lon (593), Ê-dê-ki-en nhận được ơn gọi làm ngôn sứ (cf. Ed 1,1; 2,2-7; 3,10-11). Hoạt động ngôn sứ của Ê-dê-ki-en kéo dài trong khoảng 20 năm. Sứ mạng ngôn sứ của Ê-dê-ki-en diễn ra
trong bối cảnh dân đang trãi qua cuộc khủng hoảng nội tâm sâu sa. Dân mất đất,
đền thờ, tư tế, và cả căn tính của mình (cf. Ed 33,21.
27-29). Sứ điệp của sách Ê-dê-ki-en được đánh dấu bằng hai cung giọng rất khác nhau. Thứ nhất là cung giọng lên án
và hạch tội, vang lên để kêu gọi Giê-ru-sa-lem phải bỏ những đường lối bất
trung với Chúa, và cho dân biết cuộc lưu đày vẫn chưa phải tai họa cuối cùng,
vì sự sụp đổ chắc chắn của Giê-ru-sa-lem trong một ngày không xa sẽ xảy đến. Tuy
nhiên, sau biến cố thành Giê-ru-sa-lem sụp đổ năm 586/587, sứ điệp và cung giọng
của ông chuyển sang an ủi và khích lệ nhằm khơi dậy niềm hy vọng cho dân, khi
dân đang lâm vào cảnh đau khổ và tuyệt vọng nhất.
Bố cục của
sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en có thể được chia thành 3 phần rõ ràng: phần 1 (ch.1-24)
là lời lẽ đe dọa, chống lại Giu-đa và Giê-ru-sa-lem; phần 2 (ch.25-32) là sấm
ngôn hạch tội các dân ngoại; và phần 3 (ch.33-48) là lời loan báo tương lai tốt
đẹp, mang lại niềm hy vọng cho dân sau khi thành đã mất.
Thị kiến “những bộ xương khô” (Ed 37,1-14) nằm trong phần 3. Đây là trình
thuật theo cách của một thị kiến,[1] và là một trong số các thị kiến lớn của
sách (Ed 1; 8; 37; 40). Trình thuật này mặt khác có thể được xem là trích đoạn
nổi tiếng nhất của ngôn sứ Ê-dê-ki-en.[2]
1.2. Cấu Trúc Ed 37,1-14
Đoạn trình
thuật Ed 37,1-14 có thể được chia thành hai phần khá tách biệt với lõi là câu
11. Nếu phần đầu (cc. 1-10) trình bày về thị kiến với bối cảnh xoay quanh hình ảnh
những bộ xương khô, và phần hai (cc. 12-14)[3] hướng đến đối tượng là dân Ít-ra-en, thì câu 11 như là bản
lề để nối kết hai phần này lại. Câu này cho thấy những bộ xương khô chính là
hình ảnh ẩn dụ để nói về dân Ít-ra-en (11a). Đặc biệt hơn, hai phần trên có cấu
trúc trình bày và những điểm gần như là song song hoàn toàn với nhau (như được
chỉ ra trong bảng bên dưới).
Hơn nữa, toàn
bộ trình thuật Ed 37,1-14 còn cho thấy sự chủ động và đi bước trước của Đức
Chúa, chính Ngài dẫn Ê-dê-ki-en vào thị kiến, chính Ngài muốn phục hồi dân. Bên
cạnh đó, trình thuật còn cho thấy vai trò trung gian và sự đáp trả trung tín của
vị ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Nằm trong phần 3 của sách Ê-dê-ki-en, mục đích của trình
thuật này chính là để đem lại niềm hy vọng và an ủi cho dân Ít-ra-en đang trong
cảnh lưu đày, đang lầm than tuyệt vọng, đến nổi phải thốt lên "xương cốt
chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời"
(11b). Vì thế, bài viết trước hết sẽ khởi đi từ câu 11 để rồi đọc ngược lại
cũng như đọc tiếp tới khi đào sâu ý nghĩa của trình thuật.
Cc. 1-10 |
Cc. 12-14 |
Xương không được chôn |
Dân được chôn |
Nơi thung lũng |
Trong mồ |
Đức Chúa bảo Ê-dê-ki-en tuyên sấm trên xương khô |
Đức Chúa bảo Ê-dê-ki-en Tuyên sấm trên dân
Ít-ra-en |
Thiên Chúa ban thần khí trên xương |
Thiên Chúa sẽ ban thần khí cho dân |
Xương được hồi sinh |
Dân Ít-ra-en sẽ được hồi sinh |
Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa |
Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa |
Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm như Đức Chúa truyền |
Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm như Đức Chúa truyền[4] |
2. Những Bộ Xương Khô - Hoàn Cảnh Của Dân Ít-Ra-En
Như đã được chỉ ra ở phần trên, câu 11
như là trung tâm và bản lề giúp người đọc hiểu được toàn bộ năng động cũng như
nối kết giữa hai phần cc.1-10 và cc. 12-14 của phần trình thuật Ed 37,1-14. Tuy
nhiên, điểm đặc biệt chú ý ở đây là tại sao dân Ít-ra-en lại được so sánh như
là những bộ xương khô? Và hình ảnh “xương khô” nói lên điều gì cho đọc giả?
“Bấy
giờ, Người phán với tôi: Hỡi con người, các xương đó chính là toàn thể nhà
Ít-ra-en. Này chúng vẫn nói: ‘Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi
đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời!’" (Ed 37,11).
Ngay ở đầu thị kiến, một khung cảnh hoang tàn và u ám như bao trùm và
choáng ngợp. Một thung lũng đầy xương cốt, các xương nằm la liệt, và đã khô đét
(cc. 1-2). Đây quả thực là một khung cảnh mà sự chết như thống trị hoàn toàn. Trong
não trạng Thánh Kinh, hình ảnh thung lũng được so sánh với hình ảnh núi. Núi được
quan niệm là chốn cao, thiêng thánh, "đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa”
(Mk 4,2), “ai được lên núi Chúa? Ai được ở trong đền thánh của Người?” (Tv 24,3).
Hình ảnh những chiếc “xương khô” nằm trơ trọi và rãi rác khắp trên mặt thung
lũng thoạt đầu sẽ gây ngạc nhiên cho người nhìn thấy, bởi vì cách thông thường
dân Ít-ra-en sau khi chết được chôn trong những ngôi mộ bằng đá.[1]
Do đó, hình ảnh một thung lũng đầy xương khô không được chôn cất nằm vương vải
khắp nơi có thể gợi lên khung cảnh cho thấy một điều gì đó rất khác thường đã
và đang xảy ra ở đây!
Trước hết, hình ảnh thung lũng đầy xương biểu thị về tình
trạng tội lỗi và sự chết đang thống trị dân Ít-ra-en. Trong Ed 39,11-16, ta nhận
thấy có hình ảnh về một thung lũng đầy thây người chết, và các xương nằm vương
vãi khắp nơi. Đây là khung cảnh Đức Chúa hạch tội Gốc, và nơi này là nơi ô uế cần
phải được thanh tẩy. Đặc biệt hơn, chúng ta bắt gặp hình ảnh “xương”[עֶצֶם] xuất
hiện trong Ed 6, “Ta
sẽ chất thây con cái Ít-ra-en trước các ngẫu tượng chúng thờ và sẽ rải xương
các ngươi chung quanh bàn thờ của các ngươi” (Ed 6,5). Quả vậy, hình ảnh
“xương” trong Ê-dê-ki-en gắn với việc phán
xét và hạch tội của Đức Chúa đối
với con cái Ít-ra-en. Nhưng dân Ít-ra-en đã phạm tội gì?
Trong truyền thống Thánh Kinh, việc dùng hình ảnh ẩn dụ “xương” xuất hiện
khá thường xuyên, nhưng chỉ có Ê-dê-ki-en nói đến hình ảnh thung lũng đầy
xương. Trong Ed 6,5, xương của dân Ít-ra-en được rải chung quanh bàn thờ, còn thây
được đặt trước các ngẫu tượng. Điều này cho thấy rằng dân Ít-ra-en bị phạt nên
không được chôn cất, và Đức Chúa còn muốn cho thấy nơi thờ phượng – bàn thờ hiện
tại của dân là ô uế (cf. 2V 23,14). Quả vậy, việc thây người chết không được chôn cất là một
hình phạt, được thấy trong Ds 19,11-20, Đnl 21,22-23, và có thể tương đồng với việc “trừng
phạt kẻ vi phạm hiệp ước” (curse for treaty violation)[6]. Ê-dê-ki-en với xuất thân là một tư tế, ông thấy rất rõ sự ô uế nơi đến thờ,
mà sự ô uế nhất chính là việc thờ ngẫu tượng và việc thờ phượng sai nghi thức.
Đây ắt hẳn chính là tội lỗi lớn nhất của dân Ít-ra-en mà Ê-dê-ki-en chỉ cho thấy
ở đây.[7] Ắt hẳn chính vì lý do này mà nhiều lần Ê-dê-ki-en đã miêu tả hình ảnh Đức
Chúa rời bỏ đền thờ (cf. 8,6; 10,1; 11,1).
2.2. Tình Trạng Tuyệt Vọng
Thứ đến, hình ảnh
“xương khô” lột tả tình trạng tuyệt vọng và đau thương của dân Ít-ra-en. Chính
dân đã phải thốt lên “xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã
rồi đời” (11b). Greenberg cho thấy sự tương phản hoàn toàn giữa một bên
là xương còn sống (Cn 3,8; 15,30) với một bên là xương khô (Cn 17,22). Ông cho
rằng xương khô diễn tả nhấn mạnh sự thất vọng và đau khổ của một người khi bị bỏ
rơi (cf. Tv 31,23).[8] Hơn nữa, đây còn là xương rất khô hoặc hoàn toàn khô nữa,[9] một sự tuyệt vọng và đau khổ cùng cực. Mặt khác khi phân tích bản văn câu
11b, nhà nghiên cứu Odell có đồng quan điểm với Zimmerli khi lưu ý rằng âm [ēnu] trong cuối mỗi động từ Do Thái ở câu 11 cho thấy rằng lời
diễn tả này là một lời than trách và ai ca, mang tính bi thương và xót xa.[10] Dân đã cảm nhận phần nào tội lỗi của mình đáng phải chết và sẽ chết, "Các tội
phản nghịch và tội lỗi chúng tôi đã phạm đè nặng trên chúng tôi; chính vì vậy
mà chúng tôi phải chết. Chúng tôi còn sống làm sao được?" (Ed 33,10).
2.3. Tình Trạng Lưu Đày
Nhưng suy cho cùng hình ảnh những bộ xương khô đét còn là
phản ánh về tình trạng dân đang sống trong hoàn cảnh lưu đày, phải đối đầu với
bao thách đố và khủng hoảng. Chính bối cảnh này giúp chúng ta hiểu điều Đức
Chúa phán “Ta
sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en” (c. 12). Tình trạng lưu đày được xem như là “ở trong huyệt”, đã chết. Hẳn là vậy!
Những bộ xương khô chính là hình ảnh của dân Ít-ra-en vốn bị xâm chiếm đất và phải
đi lưu đày trong một thời gian dài ở Ba-by-lon. Cuộc sống trên đất lưu đày khiến cho dân Ít-ra-en đối diện
với cuộc khủng hoảng về mọi mặt, tôn giáo, chính trị, và căn tính của mình nữa.
Đất đã bị Ba-by-lon chiếm lấy, vua và dân cũng phải chịu cảnh lưu đày, nền quân
chủ cũng mất. Đứng trước hoàn cảnh mờ mịt ấy, những câu hỏi được đặt ra: liệu rằng
Đức Chúa có quyền uy hơn thần của người Ba-by-lon (cf. Ed 36,20), hay phải
chăng Đức Chúa đã quá tàn nhẫn với họ, và Ngài không ngay thẳng (cf. Ed 18,25). Đã có rất nhiều
người từ bỏ niềm tin vào Thiên Chúa. Họ tìm đến với việc thực hành đồng bóng,
ma thuật cũng như tin theo thần ngoại, với hy vọng có thể tìm biết và làm chủ
được một tương lai vẫn còn mờ mịt và bất ổn (cf. Is 47, Ed 13). Mặt khác, biến
cố thành Giê-ru-sa-lem và đền thờ bị phá hủy còn là cuộc khủng hoảng lớn nhất
trong lịch sử của dân Ít-ra-en, khiến tình cảnh của dân càng trở nên bi đát và
tuyệt vọng, như là những bộ xương khô đét, hoàn toàn vô vọng.
Tóm lại, bằng lối trình bày song song hình ảnh bộ
xương khô với hoàn cảnh dân Ít-ra-en, cùng với những đặc nét miêu tả nhấn mạnh
khác, trình thuật cho thấy hoàn cảnh bi ai và vô vọng của dân. Hơn nữa, nếu như
người ta vẫn hay nói, nỗi thất vọng lớn nhất chính là khi tự người đó không còn
hy vọng vào bản thân họ nữa, thì chính dân Ít-ra-en lúc này cũng đã tự xem mình
như thế, không còn chút hy vọng gì, và buông xuôi tất cả.
3. Ngôn Sứ Là Người Có Kinh Nghiệm Để Nói Về Niềm Hy Vọng
Khi dân Ít-ra-en
đang bế tắc và tuyệt vọng, tự thấy mình như những bộ xương khô đến nỗi cất lên những lời ai ca bi thảm, ắt hẳn Đức Chúa cũng đã rất đau xót đến
nổi Ngài cũng bật lên một câu thương trách “sao các ngươi lại muốn chết, hỡi
nhà Ít-ra-en?” (Ed 33,11). Đức Chúa nhìn thấy sự cùng cực của dân, khi dân đã tự
nhìn nhận rằng nơi họ chẳng còn một ý nghĩa sống nào, chẳng còn một hy vọng cứu
chữa nào nữa, Người phán với dân ngang qua vị ngôn sứ của mình rằng: “hỡi dân
Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và
đem các ngươi về đất Ít-ra-en” (Ed 37,12-13). Đức Chúa đã hành động để phục hồi dân, và Người thực hiện
điều này qua tôi trung là ngôn sứ của Người. Trong hoàn cảnh lưu đày, bên cạnh
Isaia II, Ê-dê-ki-en đã được Chúa kêu gọi để làm ngôn sứ cho Người, để nâng dậy
và mang lại niềm hy vọng cho dân của Đức Chúa.
3.1. Kinh Nghiệm
Nhìn Thấy Sự Hiện Diện Của Chúa Trong Nghịch Cảnh
Ngay ở đầu thị
kiến, Ê-dê-ki-en thuật lại rằng chính Đức Chúa là Đấng làm chủ và cho ông thấy
thị kiến xắp xảy đến. “Tay Đức Chúa đặt trên tôi. Đức Chúa dùng thần khí đem
tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng” (c. 1a). Những hình ảnh và hành động này được
bắt gặp trong các trình thuật thị kiến khác (Ed 1,1-3; 3,22; 8,1; 11,24-25;
40,1-4). Đặc biệt, khi đặt thị kiến bộ xương khô bên cạnh thị kiến Ê-dê-ki-en được
kêu gọi và được dành riêng để phục vụ Lời Chúa (Ed 3,22-27), ta thấy có sự song
song và tương phản rất rõ giữa công thức
mở đầu của hai thị kiến như được chỉ ra sau đây.
Thị Kiến Kêu Gọi (Ed 3,22-24) |
Thị Kiến Bộ Xương Khô (Ed 37,1-4) |
||
22a |
Tay Đức Chúa đặt trên Ê-dê-ki-en |
1a |
Tay Đức Chúa đặt trên Ê-dê-ki-en |
22b, 24 |
Người phán với Ê-dê-ki-en hãy ra thung lũng Thần khí nhập vào Ê-dê-ki-en |
1b |
Đức Chúa dùng thần khí đem Ê-dê-ki-en ra, đặt Ê-dê-ki-en giữa thung lũng |
23b |
Ê-dê-ki-en
thấy vinh quang của Đức Chúa |
1c-2 |
Ê-dê-ki-en
thấy thung lũng ấy đầy xương cốt, nằm la
liệt, khô đét |
24 |
Đức Chúa phán với Ê-dê-ki-en |
4 |
Đức Chúa phán bảo Ê-dê-ki-en |
Hai khung cảnh cho thấy chính nơi thung lũng, nơi mà sự chết thống trị, nơi
phơi bày hậu quả của sự trừng phạt và đau khổ của dân Ít-ra-en (c. 1-2) cũng lại
nơi Ê-dê-ki-en đã được kêu gọi. Tại giây phút ban đầu ấy, điều mà Ê-dê-ki-en
nhìn thấy không phải là sự chết thống trị nhưng là sự rạng ngợi do vinh quang Đức
Chúa hiện diện. Điều này vừa cho thấy sự liên tục vừa cho thấy tính mới mẻ
trong ơn gọi và sứ mạng của vị ngôn sứ. Ắt hẳn, chính kinh nghiệm đụng chạm “trực
tiếp” với Thiên Chúa thuở ban đầu đó đã làm nền cho toàn bộ ơn gọi và sứ mạng của
Ê-dê-ki-en. Nên giờ đây, khi trình bày một khung cảnh hoang tàn bi thương,
không có sức sống và vô vọng ở chính thung lũng, Ê-dê-ki-en ngầm chỉ cho dân thấy
sự hiện hiện của Đức Chúa ở đó như kinh nghiệm mà ông đã có. Dù thung lũng ấy
có đang bị bóng tối tội lỗi thao túng thì Chúa vẫn luôn hiện diện và quan
phòng.
3.2. Kinh Nghiệm Về Niềm Hy Vọng Biết Cậy Dựa Nơi Chúa
Tiếp đến,
Ê-dê-ki-en như bị chất vấn về xác tín và kinh nghiệm của mình có ở trên khi
trình thuật thị kiến tiếp tục với lời Đức Chúa hỏi Ê-dê-ki-en: "Hỡi con
người, liệu các xương này có hồi sinh được không?”, và Ê-dê-ki-en đã thưa với Đức
Chúa rằng “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó" (c.
3). Câu trả lời của Ê-dê-ki-en cho thấy kinh nghiệm và niềm tin vào niềm hy vọng
đặt để ở nơi Chúa. Ông bắt đầu bằng một lời tuyên xưng niềm tin và thờ phượng,
tuyên xưng Đức Chúa là Chúa Thượng, uy quyền và toàn năng. Sau đó, câu trả lời
tiếp nối với một lời cho thấy chính thái độ nội tâm của ông, ông không còn cậy
dựa vào điều gì và vào chính mình nữa, vì ông tin rằng chỉ có Chúa biết và chỉ
có Ngài mới có thể làm mọi sự. Để có được thái độ nội tâm với lòng xác tín vào
Thiên Chúa như vậy, ắn hẳn Ê-dê-ki-en đã phải trải qua nhiều thử thách và tinh
luyện trước đó. Quả vậy khi nhìn lại bước đầu giai đoạn ngôn sứ của Ê-dê-ki-en,
chúng ta thấy rằng ông đã gặp rất nhiều sự chống đối và loại trừ từ dân. Ông đã
sống và trãi qua mối giằng co nội tâm giữa một bên là lời ngôn sứ Chúa truyền
phải nói để hạch tội và giúp dân nhận ra tình trạng tội lỗi của mình, với một
bên là sự bất lực trước sự cứng lòng và điếc lác của dân. Bên cạnh đó, sự chống
đối của các ngôn sứ giả cũng khiến lời của Ê-dê-ki-en bị ảnh hưởng trên dân (Ed 12,2-3). Ê-dê-ki-en
bị câm là vì vậy (Ed 3,26). Nhưng Ê-dê-ki-en vẫn luôn cho thấy ông trung tín và
chu toàn sứ mạng của mình, vì ông luôn tín thác và đặt niềm hy vọng vào Chúa mà
thôi.
Thái độ và niềm tin của Ê-dê-ki-en vào Đức Chúa còn thể hiện khi ông được
Chúa tiếp tục sai bảo “ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy” (c. 4), và ông đã
vâng lời Đức Chúa. Ê-dê-ki-en dù nhìn thấy sự hoang tàn và dường như vô vọng
nơi các xương ấy, vốn là hình ảnh miêu tả tình trạng của dân Ít-ra-en, ông vẫn
tín thác vào Đức Chúa và đặt niềm tin vào khả thể dân được phục hồi như Đức
Chúa tuyên báo. Trông cậy vào Đức Chúa, Ê-dê-ki-en tin rằng dân có thể được phục
hồi. Thế rồi, trong chuỗi những diễn biến của thị kiến, Ê-dê-ki-en tuyên sấm
trên các xương khô ấy, và các xương đã được trỗi dậy. Chính Ê-dê-ki-en đã được
Chúa chỉ cho thị kiến, và ông đã kinh nghiệm được sự tái sinh nhờ vào quyền
năng của Chúa. Trong chính những điều kiện vô vọng và không thể cứu chữa thì Đức
Chúa vẫn có thể cứu chữa được. Một lần nữa, chính nơi thung lũng đầy xương vốn
vắng bóng sự sống và hy vọng, Ê-dê-ki-en đã tin và kinh nghiệm về quyền năng
khuất phục sự chết của Đức Chúa. Vinh quanh của Đức Chúa vẫn hiện diện ở đó, dù
bên ngoài đất của dân Ít-ra-en, bên ngoài đền thờ, dù là nơi tội lỗi hay sự chết
như thống trị, Đức Chúa vẫn luôn hiện diện và cứu chữa dân. Và đây là bước chuyển
trong thông điệp của Ê-dê-ki-en mà ông muốn loan báo cho dân: với Chúa mọi sự đều có thể. [11]
3.3. Kinh Nghiệm
Về Sự Tái Sinh Nhờ Thần Khí
Trong giai đoạn
đầu của sứ mạng ngôn sứ, Ê-dê-ki-en đã được kêu gọi làm người canh thức (cf. Ed
3,16-21), để phân tích sự sụp đổ của Giê-ru-sa-lem vào năm 587 và rút ra bài học
cho dân. Nhưng ở Ed 33,1-9, Ê-dê-ki-en lại
được kêu gọi một lần nữa làm người canh thức. Điều đó cho thấy sứ mạng loan báo lời hạch tội và phán xét đã hoàn tất, giờ đây, Ê-dê-ki-en
trở thành người quan tâm và nhìn thấy những nỗi thống khổ của dân, nhìn thấy sự
tuyệt vọng và bi ai của dân, để khích lệ và nâng đỡ. Sứ mạng chính yếu của ngôn sứ luôn luôn
là công bố Lời của Chúa cho dân. Lời ấy không bao giờ là cứng nhắc, nhưng luôn
gắn với hoàn cảnh của dân, luôn là lời hướng về tương lai và đưa đến niềm hy vọng
cho con người. Thực vậy, lời khích lệ an ủi dân không phải chỉ được nói ra
trong giai đoạn về sau, lúc thành Giê-ru-sa-lem và đền thờ bị phá hủy, nhưng lời
hy vọng ấy đã luôn ấp ủ trong những lời nhắc nhở và hạch tội trước đó (cf. Ed
11,14-21; 16,60-62; 36,26-32…). Đặc biệt, khi dân đã trong cảnh lưu đày, dân
như buông xuôi và tuyệt vọng, vị ngôn sứ giờ đây muốn cho dân hiểu và tin vào một
sự phục hồi chỉ do bởi Thần Khí của Chúa ban cho.
Ê-dê-ki-en
kinh nghiệm về sự sống mới do bởi Thần Khí của Chúa. Trả lời cho dân câu hỏi
làm sao dân có thể sống và được phục hồi, thị kiến Ê-dê-ki-en miêu tả cho thấy
những bộ xương khô được hồi sinh là nhờ vào uy quyền, nhờ vào Thần Khí của Đức
Chúa (cc. 4-10). Cũng vậy, chỉ nhờ bởi thần khí mà dân sẽ được phục hồi (cc.
12-14). “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi
sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi” (Ed 37,14). Có thể
nói, toàn bộ trình thuật Ed 37,1-14 cho thấy rất rõ chính kinh nghiệm của
Ê-dê-ki-en có và muốn truyền lại cho dân rằng: dù trong tình trạng tội lỗi và sự
chết, dân cũng sẽ được hồi sinh như những bộ xương khô. Ấy là sự hồi sinh nhờ
vào Thần Khí của Đức Chúa. Phân tích đoạn trình thuật Ed 37,1-14 cho thấy tất cả
có 7 lần xuất hiện từ “רוּחַ”. Trong tiếng Do Thái, từ này vừa có nghĩa là “hơi thở” và “gió” và “thần
khí”. Nếu đem đối chiếu các câu Ed 37,6.8 với G 10,8.9.11 và St
2, chúng ta sẽ nhận
thấy rằng những mô tả ở đây là hình ảnh về một cuộc sáng tạo, hay nói đúng hơn,
Ê-dê-ki-en đang mô tả về một cuộc tái tạo bởi Thần Khí sẽ xảy ra với dân.
Ê-dê-ki-en chỉ
cho dân thấy rằng nếu dân xem mình là những nắm xương khô thiếu sức sống và tuyệt
vọng, thì Chúa có thể hồi sinh nhờ Thần Khí của Chúa, và đem đặt họ trở lại đất
Ít-ra-en như đặt con người trong vườn Ê-đen (Ed 37,14).[12] Rõ rằng với khung cảnh sáng tạo như rất
thân quen với đọc giả là dân Ít-ra-en,[13] Ê-dê-ki-en cho dân nhận biết rằng
chính nhờ Thần Khí được ban, dân sẽ có được một trái tim mới, một trái tim bằng
thịt, để tuân giữ những giới luật và trở nên con cái Thiên Chúa (cf. Ed
11,19-20; 36,26-28). Chính trong kinh nghiệm khi không thể tìm thấy bất cứ lý
do nào để trả lời cho câu hỏi tại sao Chúa muốn cứu chữa mình như vậy, vị ngôn
sứ mời gọi dân ngộ ra Tình Yêu nhưng không của Chúa. Nhờ đó, dân tự thấy rằng
mình cần phải thay đổi, cần phải hoán cải và mở lòng ra với ơn đổi mới của Chúa
mang đến.
Tóm lại, ngôn sứ
là người nhìn thấy và hiểu cho hoàn cảnh của dân, đụng chạm và đồng cảm với những
đau khổ và tuyệt vọng của dân. Bên cạnh đó, vị ngôn sứ cũng vẫn tín thác và cậy
dựa vào Chúa, vì tin rằng chỉ cho Thần Khí của Chúa mới có thể hồi sinh và là
niềm hy vọng cho dân. Ở đây ta thấy rằng vị ngôn sứ muốn gợi lên cho dân kinh
nghiệm về niềm hy vọng. Một niềm hy vọng không dựa trên bất cứ điều gì về phía con
người, vì nếu còn dựa vào đó thì sẽ thấy vô vọng. Nhưng niềm hy vọng thực sự chính
là khi tin nhận và đặt để cuộc đời của mình vào trong tình yêu thương vô điều
kiện của Chúa. Tôi đặt hy vọng vào Người vì Người đã luôn yêu thương và đặt hy
vọng nơi tôi trước.
Kết Luận
Có thể nói, sống
trong hoàn cảnh lưu đày, dân Ít-ra-en đối diện với biết bao khủng hoảng và đêm
tối. Họ như những bộ xương khô đét, đã chết, và vô vọng. Thế nhưng trong chính
hoàn cảnh bi đát ấy, Thiên Chúa vẫn đồng hành với dân của Người qua trung gian
vị ngôn sứ. Ắt hẳn, “sự hiện diện đẹp nhất của các ngôn sứ chính là việc đồng
hành với dân của mình trong những thời khắc tăm tối nhất”.[14] Người ngôn sứ thấu hiểu và mang lấy
chính những giới hạn của kiếp người, tội lỗi, bất lực nơi dân. Bên cạnh đó, dù
sứ điệp có khi là lên án và hạch tội dân, nhưng suy cho cùng là vì ngôn sứ ấy
thi hành sứ mạng trung gian. Vị ngôn sứ cũng mang lấy nỗi khắc khoải khôn nguôi
và trăn trở của Chúa, luôn quan tâm yêu thương và muốn dân được tốt hơn, luôn
luôn hy vọng và hướng dân về một tương lai phía trước, vì vị ngôn sứ xác tín
vào quyền năng của Thần Khí và tình thương xót nhưng không của Người.
Ta thấy rằng
hình ảnh của ngôn sứ Ê-dê-ki-en được hiện thực và tròn đầy nơi Đức Kitô. Nhìn
thấy nổi thống khổ và muốn đến để nâng con người lên, Đức Kitô đã nhập thể. Người
“chạnh lòng thương” dân Người (cf. Mt 9,36; 14,14; 15,32; 20,34; Mc 1,41; 6,34;
8,2; Lc 7,13), Người nói “vì Con Người đến để cứu cái gì đã hư mất” (Mt 18,11).
Có thể nói, Đức Giêsu chính là Đấng hoàn thành niềm hy vọng tối hậu mà
Ê-dê-ki-en đã loan báo (cf. Ed 36,25-29; 37.14, 23), Đấng ban Thần Khí để đổi mới
con người, và giúp con người sống giới răn tình yêu.[15] Chính Chúa Giêsu đã chuộc lại mạng sống đáng lẽ phải chết do tội của dân! Người đã xuống hỏa ngục và không có nơi
nào Người ko đến. Có thể nói, hỏa ngục là tình trạng khi một ai đó mất đi niềm
hy vọng của mình, nhưng chính khi ấy Người cũng đến và mang lại niềm hy vọng
cho họ. Chúa Giêsu đã làm cho kẻ chết sống lại (câu chuyện về Lazaro ở Ga
11,38). Nhưng hơn thế, cuộc Vượt Qua và sự Phục Sinh của Người đem lại cho con
người ơn sự sống mới.[16] Cho nên, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều
là thọ tạo mới” (2Cr 5,17a ).
Là những tín hữu, từ khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy và được trao ban Thần
Khí, mỗi người cũng mang lấy sứ mạng trở thành ngôn sứ của Thiên Chúa cho thế
giới hôm nay. “Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái
các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ” (Cv 2,17). Do vậy, mỗi người chúng ta cũng được
mời gọi để bước theo Đức Ki-tô, và trở nên một trung gian của Thiên Chúa như
Ê-dê-ki-en. Khi cần chúng ta sẵn sàng lên tiếng để sửa dạy và khuyên bảo. Nhưng
trước hết chúng ta cần có lòng trắc ẩn, biết chạnh lòng thương và đồng cảm với
anh chị em của mình, và biết nói lời đem lại niềm hy vọng và nâng dậy chứ không
phải ngược lại. Bắt chước Đức Giêsu, chúng ta cần dám tin và đặt hy vọng thậm
chí trong những hoàn cảnh thách đố nhất, dám đặt niềm tin vào người anh chị em,
và đặt niềm tin vào chính mình nữa, nhờ vào niềm tin và lòng cậy dựa vào Chúa,
vì “đối với Thiên Chúa, không gì là không thể làm được” (Lc 1,37).
Cũng vậy, mỗi người tín hữu cần đặt niềm tin vào Thần Khí Chúa, vì “Thần
Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là
thần khí và là sự sống” (Ga 6.63). Khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày nay như
giúp con người vươn đến nhiều giới hạn mới, xa hơn lớn hơn, nhưng đó chỉ là những
giới hạn trên chiều ngang của các sự vật, của cái có thể làm được và những gì
có thể hưởng thụ được. Nhưng mặt khác, chính khi đã chạm đến những giới hạn
này, con người dễ cảm thấy hụt hẫng nhưng lại thiếu đi những chỉ dẫn giúp họ đi xa hơn viễn
tượng ấy. Thực vậy, chính hiệu quả của Thần Khí Chúa, là bình an, niềm vui, sự
sung mãn, tình yêu vị tha, tự do, hy vọng, mới là điều đem lại cho con người
giá trị và động lực sống thực sự. “Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn
hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an” (Rm 8,6).
Nhiều người hôm nay cũng đang phải đối diện với biết bao cảnh đỗ vỡ và khủng hoảng, mất niềm tin vào cuộc sống và người khác, hay thậm chí không dám đặt hy vọng vào bản thân. Gặp gỡ những hoàn cảnh quá bi đát và đau khổ này, người tín hữu hay cách chung mọi người được mời gọi để đồng cảm và chia sẻ, để đem lại hy vọng và nâng đỡ nhau. Một niềm hy vọng sâu thẳm có được nhờ vào cảm nghiệm sự ân sủng và tình yêu nhưng không được trao tặng trong cuộc đời. Vì khi tôi nhìn thấy những áng mây mù, nghĩa là nơi tôi đã có một ánh sáng ẩn tảng nào đó! Khi sống trong trạng thái này, ắt hẳn mỗi người sẽ đụng chạm và kinh nghiệm được về một niềm hy vọng ngay khi nơi mình chẳng có một lý lẻ và điều gì để hy vọng, và rồi nói lời chia sẻ niềm hy vọng này cho người khác.
Thư Mục Tham Khảo
Biwul, Joel Kamsen Tihitshak. “The Restoration Of The Dry Bones In Ezekiel 37:1-14”. Scriptura 118
(2019:1):1–10. http://dx.doi.org/10.7833/118-1-1528.
Cao, Gia An. “Dấn Thân Xã Hội – Chiều Kích Đặc Trưng Của Ơn Gọi
Ngôn Sứ”. Hợp tuyển thần học số 52 (2018): 101–139.
Eichrodt, Walther. Ezekiel -
A Commentary. Philadelphia:
The Westminster Press, 1970.
Johnston, P.S. “Afterlife”. In the Dictionary of the Old
Testament Prophets, edited
by Mark J. Boda J. and Gordon McConville, 1–5. Illinois:
Intervarsity Press, 2012.
Kinh Thánh Trọn Bộ. Ấn Bản 2011.
Bản dịch và chú thích của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ (CGKPV). Hà Nội:
Nxb. Tôn Giáo, 2011.
Kutsko, John F. Between
Heaven and Earth: Divine
Presence and Absence in the Book Of
Ezekiel. In
Biblical And Judaic Studies From the University Of California (vol 7),
edited by William Henry Propp. Indiana:
Eisenbrauns, 2000.
Lapsley, Jacqueline E. Can
These Bones Live? The Problem of the Moral Self in the Book of Ezekiel. New York: Walter de Gruyter, 2000.
Manning Jr, Gary T. Echoes of a Prophet, The Use
of Ezekiel in the Gospel of John and in Literature of the Second Temple Period. New York: T&T Clark International, 2004.
Mein, Andrew. Ezekiel and the Ethics of
Exile. New York: Oxford University Press Inc., 2001.
Odell, Margaret S. Smyth
& Helwys Bible Commentary: Ezekiel. Georgia: Smyth & Helwys Publishing, Inc., 2005.
Wong, Ka Leung. The Idea of Retribution in the
Book Of Ezekel. Netherlan:
Brill, 2001.
[1] Khung cảnh mở
đầu trình thuật có sự xuất hiện của các hình ảnh và hành động như “cấu trúc mở
đầu” của một thị kiến: “tay Đức Chúa đặt trên tôi” (Ed 1:3; 3:22; 8:1; 40:1), “dùng thần
khí đem tôi ra” ( Ed 1,1-3; 11,24-25; 40,1-4). Tuy nhiên, cũng có tác giả cho rằng đây nên được xem là trình thuật xuất thần
qua đó Ê-dê-ki-en thực hiện những hành động tượng trưng. Cf. Margaret S. Odell, Smyth & Helwys Bible Commentary: Ezekiel, 454.
[2] Lapsley, Jacqueline E 2000, Can These Bones
Live? The Problem of the Moral Self in the Book of Ezekiel, 169.
[3] Có tác giả xem phần
cc. 11-14 là phần chú giải.
Cf. Walther Eichrodt, Ezekiel
- A Commentary, 509.
[4] Nói rằng Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm cho dân như Đức Chúa
truyền ở đây là theo nghĩa mặc nhiên. Vì chính trình thuật này tự nó là lời
tuyên sấm của Ê-dê-ki-en cho dân Itrael.
[5] Cf. P.S. Johnston, “Afterlife”, 3.
[6] Fensham cho rằng phép ẩn dụ Ê-dê-ki-en dùng khi so sáng
dân Itrael với những xương khô cần được đọc dưới sự soi sáng về những “hình phạt
đối với kẻ phản loạn ở vùng Cận Đông thời cổ đại” (ancient Near Eastern treaty
curses). Khi kẻ phản loạn phải chịu sự trừng phạt thậm chí sau khi đã chết. Do
đó, hình ảnh thung lũng đầy xương ám chỉ đến sự bất trung và phản bội của dân
Giu-đa trong giao ước với Đức Chúa. Cf. Margaret S.
Odell, Smyth
& Helwys Bible Commentary: Ezekiel,
449-450.
[7] Ka Leung Wong,
The Idea of Retribution In The Book Of
Ezekel, 248.
[8] Cf. Margaret
S. Odell, Smyth
& Helwys Bible Commentary: Ezekiel,
453.
[9] Ê-dê-ki-en mô tả
tình trạng của những bộ xương là rất khô (37,2). Trạng từ được dùng để mô tả là
“rất” (ASV, ESV, GNV, KJV, NAS, NET, NIV, NKJ, NRS, RSV, TNK,
YLT), “hoàn toàn” (NJB, NLT). Cf.
Joel
Kamsen Tihitshak Biwul, “The Restoration Of The Dry Bones
In Ezekiel 37:1-14”, 4.
[10] Cf. Margaret
S. Odell, Smyth
& Helwys Bible Commentary: Ezekiel,
453.
[11] Walther
Eichrodt, Ezekiel - A Commentary,
507.
[12] Tác giả quan
niệm rằng hình ảnh Chúa đem dân Ít-ra-en trở về đất của mình giống như hình ảnh
Chúa lại đặt con người vào vườn Ê-đen của Người. Cf. John F. Kutsko, Between Heaven And Earth - Divine Presence
And Absence In The Book Of Ezekiel, 133-134.
[13] Andrew Mein, Ezekiel and the Ethics of Exile, 217.
Tác giả cho rằng ý nghĩa diễn đặt của những hình ảnh mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en sử dụng
vốn đã quen thuộc với đọc giả là dân Ít-ra-en.
[14] Cao Gia An, “Dấn
Thân Xã Hội – Chiều Kích Đặc Trưng Của Ơn Gọi Ngôn Sứ”, 129-130.
[15] Gary T.
Manning Jr, Echoes of a Prophet, The Use
of Ezekiel in the Gospel of John and in Literature of the Second Temple Period,
170.
[16] Ê-dê-ki-en
cũng được gọi là “con người” như Chúa Giêsu được gọi sau này (Ed 37,3.9.11). Manning cho rằng cách thánh sử Gioan miêu tả
Chúa Giêsu như là tác nhân của sự sống mới và là sự phục sinh khởi đi từ sách
Ê-dê-ki-en. Cf. Gary
T. Manning Jr, Echoes of a Prophet,
163-164.