Lịch sử thần học: những vấn đề và khuynh hướng giải quyết

 


Đặt vấn đềNhìn lại lịch sử thần học, đâu là những vấn đề thần học được đặt ra và đã có những khuynh hướng giải quyết tương ứng như thế nào?

Tóm dịch từ: Jared Wick, SJ, Doing Theology, (New jersey: Paulist Press, 2009), 1-21.


Theo tác giả, suy tư thần học (hay làm thần học) là tìm kiếm ý nghĩa của đời sống đức tin, là lần tìm đến ý nghĩa của những mặc khải và ý nghĩa của tương quan sự sống của con người với Chúa. Xét cho cùng, làm thần học là bàn về ý nghĩa của Lời Chúa, để rồi tìm thấy ý nghĩa của thực tại và của đời sống mình, và sống đức tin ấy. Đây là một nhu cầu thiết yếu trong đời sống đức tin của người tín hữu. Do đó nếu bối cảnh sống của người tín hữu thay đổi, những động cơ và phương pháp làm thần học cũng tương ứng được tái định hình với những điểm nhắm khác nhau dù có một mục đích nền tảng như trên. Làm thần học là việc khảo cứu sự tỏ ra của Thiên Chúa cho con người vốn diễn ra trong các giai đoạn khác nhau với những bối cảnh rất khác nhau. Khi đối diện với những vấn đề trong từng bối cảnh của mỗi giai đoạn khác nhau như thế, truy vấn thần học cũng trãi qua nhiều hình thức và phương pháp tương ứng để giải đáp cho những vấn đề đó. Điều này được thể hiện rõ trong các ví dụ tương ứng với những điểm đặc trưng về bối cảnh, vấn đề thần học, cũng như những cách hiểu và phương pháp làm thần học tương ứng như sau.

1. Thời các giáo phụ: I-rê-nê và Origen

Với bối cảnh đối diện với sự bách hại đạo và lạc giáo do phong trào ngộ đạo gây ra, I-rê-nê thực hiện một suy tư học thuyết giáo hội một cách hệ thống và chặt chẻ. Với 2 tác phẩm nổi bật là Adversus Haereses The Demonstration of the Apostolic Preaching. Chống lại những tác phẩm ngụy thư, I-rê-nê nhấn mạnh lại “rule of truth” vốn có nguồn gốc từ các tông đồ và yếu tố "universal consensus".  Ngài đặc biệt nhấn mạnh và liên kết thần học với hướng dẫn của truyền thống giáo hội. Nội dung và cấu trúc thần học của ngài dựa trên "một công thức đức tin" được dạy bởi truyền thống các tông đồ.

Trái ngược với I-rê-nê, trong tác phẩm On First Principles, Origen cho rằng bởi vì bản văn Kinh Thánh được linh hứng bởi Chúa Thánh Thần, nên Kinh Thánh cần được giải thích để tìm thấy ý nghĩa "thiêng liêng". Cân tập chú vào bản văn Kinh Thánh!

2. Thời cận hiện đại: Luther và Cano

Với Luther (1483-1546), tác phẩm Lectures on Galatians của ông ắt hẳn ra đời là vì bối cảnh giáo hội lạm quyền và giáo triều tục hóa thời đó. Đây như là sự phản ứng nhưng cũng chính là suy tư và tìm kiếm ý nghĩa đức tin của chính Luther.  

Ông luôn nhấn mạnh đến một "single basic truth". Với Luther, đối diện với sự tha hóa trong giáo hội, ông cho rằng sự công chính hóa chính là nội dung và nguyên lý để trả lời cho tất cả những truy vấn thần học. Vì sự công chính hóa là caput et summa (đứng đầu và tổng kết) của học thuyết Kitô Giáo. Thiên Chúa làm cho con người nên công chính chỉ bởi ân sủng của Chúa Kitô. Do đó ông xem tất cả Kinh Thánh cũng đều hướng về điều này. Làm thần học nghĩa là chú ý liên lĩ đến hành động cứu chuộc của Chúa đối với con người tội lỗi, dựa trên kinh nghiệm về tội và sự tha thứ, trên kinh nghiệm sống và chết.  

Trái ngược với Luther, Melchior Cano phác thảo một phương pháp thần học dựa trên nhiều nguồn khác nhau, cái ông gọi là loci, or “places”. Kiểu thần học này thiếu tính trọng tâm như Luther nhưng nhấn mạnh vào yếu tố đa dạng. Phương pháp của Cano giả định một sự mở ra và phát triển truyền thống Kitô giáo đầu tiên. Ông chỉ ra những quy tắc chi phối mỗi locus (place), là cách để kiểm chứng những chân lý mạc khải theo cách phù hợp với loci đó. Loci bao gồm: Kinh Thánh, và phức hợp về học thuyết-đời sống-thờ phượng (gọi là truyền thống tông đồ). Với 5 nguyên tắc: đức tin của giáo hội phổ quát – hội nghi & công đồng – giáo hội và giám mục Roma – các giáo phụ - thần học gia kinh viện. Hơn nữa, Cano không chỉ làm thần học phụ thuộc vào thẩm quyền nhưng còn thêm vào 3 loci khác: lý trí tự nhiên, triết học, và bài học lịch sử.

Phương pháp của Cano cảnh báo về việc thu hẹp phạm vi suy tư thần học, khi chỉ dựa vào kinh nghiệm đặc biệt hay tìm kiếm điều chắc chắn khi tái khám phá nghĩa đen của Kinh Thánh, cũng như cho thấy Kinh Thánh đã đụng chạm đến người tín hữu ở nhiều cách khác nhau. Chú ý đến cái tổng thể và tương quan hài hòa trong sự đa dạng. Chúa mạc khải cho con người qua nhiều cách thức khác nhau nữa. Cách minh nhiên, hướng thần học của Cano lên án sự sai lệch trong hướng thần học của Luther.

3. Vatican I và Đức Giáo Hoáng Piô XII

Với bối cảnh thời kỳ chủ nghĩa thực chứng, nên thần học tín lý tìm kiếm tập hợp chứng cứ từ các nguồn để hổ trợ cho học thuyết thánh.

Với Hiến Chế Tín Lý (Dei Filius) (1870), trước hết Vatican I định nghĩa hành vi và thái độ đức tin là chấp nhận những gì Chúa mặc khải mà Kinh Thánh và truyền thống tông đồ chứa đựng sự mạc khải này. Đức tin không phải là sự lệ thuộc mù quáng vào thẩm quyền.[1] Vì Chúa còn mạc khải qua các dấu chỉ phép lạ và sự thánh thiêng, vốn là mầu nhiệm vượt qua những suy luận và chứng cứ khả tri. Nhưng con người có thể khám phá ra một khung nền (framewwork), mà trong đó sứ điệp của đức tin phù hợp với luận lý của cuộc sống.

Sau đó Vatican I đưa ra cách thức để lý trí có thể hiểu mạc khải: Suy nghĩ về sự tương hợp giữa Kinh Thánh và các chân lý đức tin với thực tại thế giới, tương quan nối kết tích cực giữa đức tin và lý trí, sự thống nhất và hài hòa trong các mầu nhiệm; nghiên cứu mối tương quan với mầu nhiệm mạc khải với "cùng đích tối hậu của con người", ơn cứu độ; thần học liên kết những khắc khoải nền tảng - sự tìm kiếm của con người trong Chúa.

Sau này, trong Humani generis (1950), đức Pio XII đã công nhận những cẩm nang thần học với 3 điểm: xác chuẩn mối liên kết chặt chẻ giữa thần học gia với thẩm quyền giảng dạy của giáo hội; không phải chỉ lặp lại nội dung của văn kiện giáo hội nhưng trở lại với nguồn cội Kinh Thánh và Truyền thống để luôn làm mới; thần học nên bắt đầu từ các giáo huấn ngày nay rồi cho thấy nó đã bắt nguồn từ Kinh Thánh và phát triển trong truyền thống như thế nào, thần học với phương pháp "về nguồn" (regressive).

Sau cùng, có thể thấy rằng tất cả những hướng suy tư trên đều cho thấy nổ lực tìm hiểu về mạc khải và đức tin của con người, trãi qua nhiều giai đoạn lịch sử với những vấn đề đặc trưng cụ thể, và đó là nhu năng động thiết yếu trong đời sống đức tin của người tín hữu. Khi nhìn lại sáu kiểu mẫu làm thần học khác nhau này, ta thấy Melchior Cano và những chỉ dẫn của đức Piô XII đi theo hướng "thần học thực chứng" (positive theology), tìm về những nguồn khác nhau để hiểu về mạc khải. Trong khi đó I-rê-nê và Origen, hay Vatican I đi theo hướng thần học "phản tỉnh" (reflective or speculative), khi đề cao vai trò lý trí trong việc tìm hiểu và giải thích những chân lý đức tin. Từ đó ta thấy được hai hoạt động nền tảng của một suy tư thần học "lắng nghe" và  "giải thích" trong đức tin, vốn sẽ được tác giả làm rõ trong những phần tiếp theo.


[1] Ta thấy ở đây, cách mặc nhiên, tác giả nói điều này với bối cảnh giáo hội đang đặt nặng vai trò của thẩm quyền giáo hội khi suy tư thần học, một mặt phản ứng lại hướng thần học của Luther trước đó, một mặt làm bóp nghẹt và làm cho thần học xa rời với bối cảnh thực tế của xã hội đang chú ý đến lý trí và khoa học hơn.

Thần học phủ định - Giá trị và ý nghĩa

 



Lược dịch từStephen B. Bevans, An Introduction to Theology in Global Perspective, (New York: Orbis Books, 2009), 1-26.

Truyền thống thần học phủ định có vai trò và ý nghĩa gì cho suy tư thần học? Để trả lời cho câu hỏi này, trước hết bài viết tìm hiểu thần học phủ định là gì, ý nghĩa của nó đối với nền suy tư thần học, và sau cùng chỉ ra một vài áp dụng ý nghĩa ấy trong bối cảnh Việt Nam.

1. Thần học phủ định là gì?

Trong dòng suy tư thần học của giáo hội, chúng ta quả thực nói về Thiên Chúa và nhận biết về Người. Tuy nhiên, xét cho cùng Thiên Chúa không bao giờ có thể được hiểu hoặc nắm bắt cách đầy đủ bằng các khái niệm hoặc theo luận lý của con người. Đây là kiểu thần học phủ định vốn tồn tại  trong truyền thống Kitô giáo qua một thời gian dài.

Trước hết, thần học phủ định đã được bám rễ sâu trong Thánh Kinh và nhiều lĩnh vực khác nhau, cả ở Đông và Tây. Trong sách Xuất hành, ông Môse chỉ thấy được lưng chứ không thấy được tôn nhân của Chúa (Xh 33, 18-23); hay trong Tin Mừng Matthêu: "Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương,…, Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn" (1Cr 13.12). Vào thời các Giáo phụ, thánh Augustinô nói rằng "nếu bạn hiểu, thì điều bạn hiểu đó không phải là Chúa". Vào thời trung cổ ở Tây Phương, thánh Tôma Aquinô cho rằng “chúng ta không thể biết bản tính nội tại của Thiên Chúa là gì, nhưng đúng hơn là Ngài không phải là gì". Thánh nhân dùng các thuật ngữ phủ định để nói về Thiên Chúa như: tốt lành, đơn nhất, vô cùng, vĩnh cửu, toàn năng, bất biến. Con người không thể nói chính xác (univocally) Thiên Chúa là gì, nhưng chỉ nói một phần về Người (equivocally). Vì thế hiểu biết này luôn mang tính loại suy (analogy). Đến thời hiện đại, Kierkegaard nói rằng có một sự khác biệt về phẩm tính cách vô hạn giữa Thiên Chúa và con người mà sau này Karl Barth đã tiếp nối tư tưởng này.

Bên cạnh đó, thần học phủ định còn được tìm thấy nơi các tôn giáo khác bên ngoài Kitô giáo như Phật giáo: "gặp phật giết phật", Đạo giáo: "Đạo khả đạo phi thường Đạo, Danh khả danh phi thường Danh", hay trong Ấn giáo, Do thái giáo… Tóm lại, có hai loại thần học phủ định: một loại cho rằng chúng ta không thể nói điều gì về Thiên Chúa ngoại trừ việc Người hiện hữu. Nhưng có một thần học phủ định khác vốn tộn tại trong nền thần học của giáo hội Kitô giáo, khẳng định về sự vĩ đại siêu vượt của Thiên Chúa, nghĩa là Thiên Chúa không bị giới hạn trong tâm trí con người, nhưng siêu vượt trên khả năng nhận thức của con người.

2. Giá trị của thần học phủ định đối với suy tư thần học

Nếu thần học là hiểu biết về Thiên Chúa hay là khoa học về Thiên Chúa, thì ngay từ buổi đầu thần học đã gặp phải một vấn đề nền tảng là liệu rằng con người có thể nhận biết và nói về Thiên Chúa?

Ở đây ta bắt gặp câu trả lời cho câu hỏi trên khi phản tỉnh lại truyền thống thần học phủ định. Điều truyền thống thần học phủ định cốt yếu diễn tả không phải là chúng ta không thể biết gì về Thiên Chúa, nhưng đúng hơn là chúng ta luôn biết về Người như một Mầu Nhiệm. Vì thế điều quan trọng về bản chất thần học là nhận ra rằng với truyền thống Kitô giáo và với truyền thống của tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới, Thiên Chúa là không thể hiểu và diễn tả cách hoàn toàn được, nghĩa là diễn tả đúng nhưng không bao giờ diễn tả hết. Vì không một ý nghĩ, một hình ảnh nào, hay một khái niệm nào có thể nắm bắt được thực tại của Thiên Chúa một cách đầy đủ. Thiên Chúa vốn vượt trên những khái niệm và phạm trù hay ngôn ngữ được dùng để diễn tả về Người.  

Nhưng hiểu biết về Thiên Chúa như một Mầu nhiệm nghĩa là như thế nào, và làm sao để hiểu về Mầu Nhiệm? Gabriel Marcel (1888-1973) giúp ta hiểu điều này khi nói rằng “mầu nhiệm rất khác một vấn đề", và "mầu nhiệm không phải là một điều gì đó không biết hoặc không thể biết, nhưng là điều đã biết tuy nhiên lại không thể diễn tả ra, và được giải quyết một cách hoàn toàn". Đặc biệt, "mầu nhiệm là điều gì đó mà chính bản thân tôi có liên hệ đến". Để hiểu về Mầu Nhiệm cũng tương tự như để hiểu về mầu nhiệm con người, phải gặp gỡ trực tiếp, phải tự mình trải nghiệm về họ. Và điều này chỉ xảy ra thông qua sự trao tặng chính bản thân của người đó cho tôi, một sự mạc khải.

Hiểu biết về Thiên Chúa như một Mầu Nhiệm không phải là không biết gì nhưng chính nhờ sự tự mạc khải của Người mà con người có thể hiểu biết một phần về Ngài. Chính Chúa đã đi bước trước để con người có thể nhận biết người nhờ ân sủng của Người. Chúa chuyển thông chính Ngài ngang qua những đối tượng trung gian. Thiên Chúa mạc khải ngang qua những kinh nghiệm thường ngày trong cuộc sống – những khoảng lặng gặp gỡ: niềm vui, nổi buồn chán, thất vọng; trong khi lắng nghe Lời Chúa; và từ truyền thống của Giáo hội. Do đó, con người nhận biết Thiên Chúa dĩ nhiên không phải qua những khái niệm thuần túy, không phải qua những thông tin và kiến thức mệnh đề về đức tin, nhưng trong một hiểu biết chiều sâu từ cuộc gặp gỡ cá vị với Người.

Tóm lại, truyền thống thần học phủ định nhấn mạnh một nền tảng quan trọng để hiểu về bản chất của thần học. Thần học là hiểu biết về Thiên Chúa xét như là Mầu Nhiệm. Chính nhờ Thiên Chúa từ thông ban và mạc khải chính Ngài trước mà con người có khả năng nhận biết Người trong ân sủng. Con người nhận biết và nói về Thiên Chúa không phải qua những khái niệm phạm trù hay như một vấn đề. Nhưng hơn hết, thần học phải đến từ kinh nghiệm gặp gỡ trong tương quan cá vị, với cả tâm trí và con tim. Nhờ đó con người có thể hiểu và diễn tả một phần về Người, với ngôn ngữ đặc biệt, khi đi vào tương quan thờ phượng và cung kính.

3. Ý nghĩa của thần học phủ định cho thần học trong bối cảnh giáo hội Việt Nam

Thiết nghĩ giáo hội Việt Nam chịu ảnh hưởng rất lớn bởi Tam Giáo (truyền thống Đông Phương), do đó suy tư thần học đặc biệt theo cách phủ định của Kitô giáo gặp gỡ rất nhiều điều tương đồng sẳn có trong tâm thức, truyền thống, và văn hóa của người dân Việt. Điều này mở ra nhiều cơ hội cho việc suy tư thần học trong bối cảnh giáo hội Việt Nam, cũng như khi nói về Thiên Chúa cho những người anh chị em người Việt lương dân.

Thứ nhất là niềm tin vào một Thiên Chúa siêu vượt. Đông Phương dùng những từ ngữ phủ định để ám chỉ Thực Thể Tuyệt Đối như “Vô Danh”, “Chân Không Diệu Hữu”. Chữ “Vô” chỉ để biểu lộ siêu việt tính của “Vô Tuyệt Đối”. Lão Tử mô tả Vô Danh là nguồn gốc của Trời đất.[1] Dó đó tâm thức người Việt dù chịu ảnh hưởng một phần của chủ nghĩa vô thần, có lẽ luôn ẩn chứa một niềm tin vào "Ông Trời", một Đấng phép tắc vô cùng, vô thủy vô chung, vốn vượt trên và bao trùm thực tại cuộc sống. Do đó, thật thích hợp để diễn tả tính siêu vượt của Thiên Chúa theo cách của thần học phủ định, cho cả người tin và chưa tin, hay khi gặp gỡ và đối thoại với tôn giáo khác bạn trong mãnh đất Việt Nam. Mỗi người được mời gọi chìm sâu và ý thức về sự vĩ đại của Thiên Chúa, Đấng hiện diện và hoạt động trong nhân loại.[2]

Thứ đến là thái độ cần có để suy tư thần học. Truyền thông Đông Phương vốn ghi sâu nơi người Việt, khiến con dân Việt thường giữ thái độ thinh lặng để chiêm ngắm, và cảm thấy phù hợp khi đi vào con đường trực giác khi tu tâm, thiền, … Thần học phủ định cho thấy thái độ và cung cách như thế sẽ giúp con người có thể gặp gỡ Đấng là Mầu Nhiệm, đi vào trong tương quan để hiểu biết Người hơn. Ắt hẳn suy tư thần học trong và cho người Việt cần vận dụng đặc điểm này. Để đón nhận và lớn lên trong đức tin, người tín hữu một mặt cần ý thức rằng Thiên Chúa vốn siêu vượt trên các khái niệm và phạm trù, hay những tri thức giáo lý khoa bảng… và mặt khác cần phải khiêm tốn và thinh lặng để gặp gỡ, với thái độ tôn kính và thờ phượng.



[1] Lm. Jos Cao Phương Kỷ, "Tủ Sách Đàm Đạo Tôn Giáo", http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module3&v=chapter&ib=12&ict=130.

[2] Ngọc Yến chuyển dịch, Vatican News: "Hội nghị về Thần học phủ định", https://tgpsaigon.net/bai-viet/hoi-nghi-ve-than-hoc-phu-dinh-thien-chuadang-tam-tri-khong-the-nhan-thuc-duocdang-noi-voi-con-tim-63728.

Ngôn Sứ - Người Nói Lời Hy Vọng (Ed 37,1-14)



Ngôn Sứ – Người Nói Lời Hy Vọng
Phân Tích Và Chủ Giải Ed 37,1-14 

Tháng 4 năm 2021 

Xem tại: 
https://sjjs.edu.vn/ngon-su-nguoi-noi-loi-hy-vong/ 
Abstract 

Trong dòng lịch sử dân Chúa, những vị ngôn sứ luôn được mời gọi trở nên người đồng hành và hướng dẫn dân Chúa. Vị ngôn sứ vừa là người thấu hiểu và mang lấy nỗi lòng của dân, khẩn cầu cho dân, vừa là vị trung gian thực thi sứ mạng nói Lời của Chúa cho dân. Có khi thông điệp Chúa gửi đến dân ngang qua vị ngôn sứ là lời lên án và sửa dạy. Nhưng cũng có khi sứ điệp ấy là lời đem lại hy vọng và an ủi cho dân trong những hoàn cảnh bi đát và tuyệt vọng nhất. Trình thuật Ed 37,1-14 là một ví dụ minh họa rõ nét sứ mạng ấy của vị ngôn sứ Ê-dê- ki-en, là người nói lời hy vọng.

Để tìm hiểu chân dung vị ngôn sứ như là người nói lời hy vọng, trước hết bài viết sẽ tìm hiểu khái quát tác giả tác phẩm và cấu trúc của Ed 37,1-14 (phần 1). Thứ đến, bài viết sẽ phân tích về hoàn cảnh của dân Ít-ra-en (phần 2). Kế đó, bài viết tiếp tục với phần tìm hiểu những đặc nét của chân dung vị ngôn sứ – người nói lời hy vọng cho dân (phần 3), và đi đến một vài phản tỉnh áp dụng sau cùng.



Dẫn Nhập

Trong dòng lịch sử dân Chúa, những vị được kêu gọi làm ngôn sứ có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng. Ngôn sứ là người đồng hành và hướng dẫn dân Chúa. Vị ngôn sứ luôn thấu hiểu và mang lấy nỗi lòng của dân, khẩn cầu cho dân. Đồng thời, vị ngôn sứ còn là người trung gian thực thi sứ mạng nói Lời của Chúa cho dân. Có khi thông điệp Chúa gửi đến dân ngang qua vị ngôn sứ là lời lên án và sửa dạy. Nhưng cũng có khi sứ điệp ấy là lời đem lại hy vọng và an ủi cho dân trong những hoàn cảnh bi đát và tuyệt vọng nhất. Bằng lối trình bày vận dụng nhiều biện pháp văn chương, sử dụng nhiều hình ảnh và hành động tượng trưng, trình thuật Ed 37,1-14 là một ví dụ minh họa rõ nét sứ mạng ấy của vị ngôn sứ Ê-dê-ki-en, là người nói lời hy vọng.

Để tìm hiểu chân dung vị ngôn sứ như là người nói lời hy vọng trong trình thuật Ed 37,1-14, trước hết bài viết sẽ tìm hiểu khái quát tác giả tác phẩm và cấu trúc của Ed 37,1-14 (phần 1). Thứ đến, bài viết sẽ phân tích về hoàn cảnh của dân Ít-ra-en (phần 2). Kế đó, bài viết tiếp tục với phần tìm hiểu những đặc nét của chân dung vị ngôn sứ  - người nói lời hy vọng cho dân (phần 3), và đi đến một vài phản tỉnh áp dụng sau cùng.

1. Tác Giả - Tác Phẩm Và Cấu Trúc Bản Văn

1.1. Tác Giả - Tác Phẩm

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thuộc nhóm người Ít-ra-en bị bắt đi trong cuộc lưu đày lần thứ nhất năm 597. Ông thuộc tầng lớp thế giá, có trình độ, và là một tư tế đền thờ. Sau bốn năm trên đất lưu đày Ba-by-lon (593), Ê-dê-ki-en nhận được ơn gọi làm ngôn sứ (cf. Ed 1,1; 2,2-7; 3,10-11). Hoạt động ngôn sứ của Ê-dê-ki-en kéo dài trong khoảng 20 năm. Sứ mạng ngôn sứ của Ê-dê-ki-en diễn ra trong bối cảnh dân đang trãi qua cuộc khủng hoảng nội tâm sâu sa. Dân mất đất, đền thờ, tư tế, và cả căn tính của mình (cf. Ed 33,21. 27-29). Sứ điệp của sách Ê-dê-ki-en được đánh dấu bằng hai cung giọng rất khác nhau. Thứ nhất là cung giọng lên án và hạch tội, vang lên để kêu gọi Giê-ru-sa-lem phải bỏ những đường lối bất trung với Chúa, và cho dân biết cuộc lưu đày vẫn chưa phải tai họa cuối cùng, vì sự sụp đổ chắc chắn của Giê-ru-sa-lem trong một ngày không xa sẽ xảy đến. Tuy nhiên, sau biến cố thành Giê-ru-sa-lem sụp đổ năm 586/587, sứ điệp và cung giọng của ông chuyển sang an ủi và khích lệ nhằm khơi dậy niềm hy vọng cho dân, khi dân đang lâm vào cảnh đau khổ và tuyệt vọng nhất.

Bố cục của sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en có thể được chia thành 3 phần rõ ràng: phần 1 (ch.1-24) là lời lẽ đe dọa, chống lại Giu-đa và Giê-ru-sa-lem; phần 2 (ch.25-32) là sấm ngôn hạch tội các dân ngoại; và phần 3 (ch.33-48) là lời loan báo tương lai tốt đẹp, mang lại niềm hy vọng cho dân sau khi thành đã mất.

Thị kiến “những bộ xương khô” (Ed 37,1-14) nằm trong phần 3. Đây là trình thuật theo cách của một thị kiến,[1] và là một trong số các thị kiến lớn của sách (Ed 1; 8; 37; 40). Trình thuật này mặt khác có thể được xem là trích đoạn nổi tiếng nhất của ngôn sứ Ê-dê-ki-en.[2]

1.2. Cấu Trúc Ed 37,1-14

Đoạn trình thuật Ed 37,1-14 có thể được chia thành hai phần khá tách biệt với lõi là câu 11. Nếu phần đầu (cc. 1-10) trình bày về thị kiến với bối cảnh xoay quanh hình ảnh những bộ xương khô, và phần hai (cc. 12-14)[3] hướng đến đối tượng là dân Ít-ra-en, thì câu 11 như là bản lề để nối kết hai phần này lại. Câu này cho thấy những bộ xương khô chính là hình ảnh ẩn dụ để nói về dân Ít-ra-en (11a). Đặc biệt hơn, hai phần trên có cấu trúc trình bày và những điểm gần như là song song hoàn toàn với nhau (như được chỉ ra trong bảng bên dưới).

Hơn nữa, toàn bộ trình thuật Ed 37,1-14 còn cho thấy sự chủ động và đi bước trước của Đức Chúa, chính Ngài dẫn Ê-dê-ki-en vào thị kiến, chính Ngài muốn phục hồi dân. Bên cạnh đó, trình thuật còn cho thấy vai trò trung gian và sự đáp trả trung tín của vị ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Nằm trong phần 3 của sách Ê-dê-ki-en, mục đích của trình thuật này chính là để đem lại niềm hy vọng và an ủi cho dân Ít-ra-en đang trong cảnh lưu đày, đang lầm than tuyệt vọng, đến nổi phải thốt lên "xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời" (11b). Vì thế, bài viết trước hết sẽ khởi đi từ câu 11 để rồi đọc ngược lại cũng như đọc tiếp tới khi đào sâu ý nghĩa của trình thuật.

Cc. 1-10

Cc. 12-14

Xương không được chôn

Dân được chôn

Nơi thung lũng

Trong mồ

Đức Chúa bảo Ê-dê-ki-en tuyên sấm trên xương khô

Đức Chúa bảo Ê-dê-ki-en Tuyên sấm trên dân Ít-ra-en

Thiên Chúa ban thần khí trên xương

Thiên Chúa sẽ ban thần khí cho dân

Xương được hồi sinh

Dân Ít-ra-en sẽ được hồi sinh

Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa

Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa

Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm như Đức Chúa truyền

Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm như Đức Chúa truyền[4]

 

2. Những Bộ Xương Khô - Hoàn Cảnh Của Dân Ít-Ra-En

Như đã được chỉ ra ở phần trên, câu 11 như là trung tâm và bản lề giúp người đọc hiểu được toàn bộ năng động cũng như nối kết giữa hai phần cc.1-10 và cc. 12-14 của phần trình thuật Ed 37,1-14. Tuy nhiên, điểm đặc biệt chú ý ở đây là tại sao dân Ít-ra-en lại được so sánh như là những bộ xương khô? Và hình ảnh “xương khô” nói lên điều gì cho đọc giả?

“Bấy giờ, Người phán với tôi: Hỡi con người, các xương đó chính là toàn thể nhà Ít-ra-en. Này chúng vẫn nói: ‘Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời!’" (Ed 37,11).

 

Ngay ở đầu thị kiến, một khung cảnh hoang tàn và u ám như bao trùm và choáng ngợp. Một thung lũng đầy xương cốt, các xương nằm la liệt, và đã khô đét (cc. 1-2). Đây quả thực là một khung cảnh mà sự chết như thống trị hoàn toàn. Trong não trạng Thánh Kinh, hình ảnh thung lũng được so sánh với hình ảnh núi. Núi được quan niệm là chốn cao, thiêng thánh, "đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa” (Mk 4,2), “ai được lên núi Chúa? Ai được ở trong đền thánh của Người?” (Tv 24,3). Hình ảnh những chiếc “xương khô” nằm trơ trọi và rãi rác khắp trên mặt thung lũng thoạt đầu sẽ gây ngạc nhiên cho người nhìn thấy, bởi vì cách thông thường dân Ít-ra-en sau khi chết được chôn trong những ngôi mộ bằng đá.[1] Do đó, hình ảnh một thung lũng đầy xương khô không được chôn cất nằm vương vải khắp nơi có thể gợi lên khung cảnh cho thấy một điều gì đó rất khác thường đã và đang xảy ra ở đây!



[1] Cf. P.S. Johnston, “Afterlife”, 3. 



[1] Cf. P.S. Johnston, “Afterlife”, 3. 

2.1. Tình Trạng Tội Lỗi

Trước hết, hình ảnh thung lũng đầy xương biểu thị về tình trạng tội lỗi và sự chết đang thống trị dân Ít-ra-en. Trong Ed 39,11-16, ta nhận thấy có hình ảnh về một thung lũng đầy thây người chết, và các xương nằm vương vãi khắp nơi. Đây là khung cảnh Đức Chúa hạch tội Gốc, và nơi này là nơi ô uế cần phải được thanh tẩy. Đặc biệt hơn, chúng ta bắt gặp hình ảnh “xương”[עֶצֶם] xuất hiện trong Ed 6, “Ta sẽ chất thây con cái Ít-ra-en trước các ngẫu tượng chúng thờ và sẽ rải xương các ngươi chung quanh bàn thờ của các ngươi” (Ed 6,5). Quả vậy, hình ảnh “xương” trong Ê-dê-ki-en gắn với việc phán xéthạch tội của Đức Chúa đối với con cái Ít-ra-en. Nhưng dân Ít-ra-en đã phạm tội gì?

Trong truyền thống Thánh Kinh, việc dùng hình ảnh ẩn dụ “xương” xuất hiện khá thường xuyên, nhưng chỉ có Ê-dê-ki-en nói đến hình ảnh thung lũng đầy xương. Trong Ed 6,5, xương của dân Ít-ra-en được rải chung quanh bàn thờ, còn thây được đặt trước các ngẫu tượng. Điều này cho thấy rằng dân Ít-ra-en bị phạt nên không được chôn cất, và Đức Chúa còn muốn cho thấy nơi thờ phượng – bàn thờ hiện tại của dân là ô uế (cf. 2V 23,14). Quả vậy, việc thây người chết không được chôn cất là một hình phạt, được thấy trong Ds 19,11-20, Đnl 21,22-23, và có thể tương đồng với việc “trừng phạt kẻ vi phạm hiệp ước” (curse for treaty violation)[6]. Ê-dê-ki-en với xuất thân là một tư tế, ông thấy rất rõ sự ô uế nơi đến thờ, mà sự ô uế nhất chính là việc thờ ngẫu tượng và việc thờ phượng sai nghi thức. Đây ắt hẳn chính là tội lỗi lớn nhất của dân Ít-ra-en mà Ê-dê-ki-en chỉ cho thấy ở đây.[7] Ắt hẳn chính vì lý do này mà nhiều lần Ê-dê-ki-en đã miêu tả hình ảnh Đức Chúa rời bỏ đền thờ (cf. 8,6; 10,1; 11,1).

2.2. Tình Trạng Tuyệt Vọng

Thứ đến, hình ảnh “xương khô” lột tả tình trạng tuyệt vọng và đau thương của dân Ít-ra-en. Chính dân đã phải thốt lên “xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời” (11b). Greenberg cho thấy sự tương phản hoàn toàn giữa một bên là xương còn sống (Cn 3,8; 15,30) với một bên là xương khô (Cn 17,22). Ông cho rằng xương khô diễn tả nhấn mạnh sự thất vọng và đau khổ của một người khi bị bỏ rơi (cf. Tv 31,23).[8] Hơn nữa, đây còn là xương rất khô hoặc hoàn toàn khô nữa,[9] một sự tuyệt vọng và đau khổ cùng cực. Mặt khác khi phân tích bản văn câu 11b, nhà nghiên cứu Odell có đồng quan điểm với Zimmerli  khi lưu ý rằng âm [ēnu] trong cuối mỗi động từ Do Thái ở câu 11 cho thấy rằng lời diễn tả này là một lời than trách và ai ca, mang tính bi thương và xót xa.[10] Dân đã cảm nhận phần nào tội lỗi của mình đáng phải chết và sẽ chết, "Các tội phản nghịch và tội lỗi chúng tôi đã phạm đè nặng trên chúng tôi; chính vì vậy mà chúng tôi phải chết. Chúng tôi còn sống làm sao được?" (Ed 33,10).

2.3. Tình Trạng Lưu Đày

Nhưng suy cho cùng hình ảnh những bộ xương khô đét còn là phản ánh về tình trạng dân đang sống trong hoàn cảnh lưu đày, phải đối đầu với bao thách đố và khủng hoảng. Chính bối cảnh này giúp chúng ta hiểu điều Đức Chúa phán “Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en” (c. 12). Tình trạng lưu đày được xem như là “ở trong huyệt”, đã chết. Hẳn là vậy! Những bộ xương khô chính là hình ảnh của dân Ít-ra-en vốn bị xâm chiếm đất và phải đi lưu đày trong một thời gian dài ở Ba-by-lon. Cuộc sống trên đất lưu đày khiến cho dân Ít-ra-en đối diện với cuộc khủng hoảng về mọi mặt, tôn giáo, chính trị, và căn tính của mình nữa. Đất đã bị Ba-by-lon chiếm lấy, vua và dân cũng phải chịu cảnh lưu đày, nền quân chủ cũng mất. Đứng trước hoàn cảnh mờ mịt ấy, những câu hỏi được đặt ra: liệu rằng Đức Chúa có quyền uy hơn thần của người Ba-by-lon (cf. Ed 36,20), hay phải chăng Đức Chúa đã quá tàn nhẫn với họ, và Ngài không ngay thẳng (cf. Ed 18,25). Đã có rất nhiều người từ bỏ niềm tin vào Thiên Chúa. Họ tìm đến với việc thực hành đồng bóng, ma thuật cũng như tin theo thần ngoại, với hy vọng có thể tìm biết và làm chủ được một tương lai vẫn còn mờ mịt và bất ổn (cf. Is 47, Ed 13). Mặt khác, biến cố thành Giê-ru-sa-lem và đền thờ bị phá hủy còn là cuộc khủng hoảng lớn nhất trong lịch sử của dân Ít-ra-en, khiến tình cảnh của dân càng trở nên bi đát và tuyệt vọng, như là những bộ xương khô đét, hoàn toàn vô vọng.

Tóm lại, bằng lối trình bày song song hình ảnh bộ xương khô với hoàn cảnh dân Ít-ra-en, cùng với những đặc nét miêu tả nhấn mạnh khác, trình thuật cho thấy hoàn cảnh bi ai và vô vọng của dân. Hơn nữa, nếu như người ta vẫn hay nói, nỗi thất vọng lớn nhất chính là khi tự người đó không còn hy vọng vào bản thân họ nữa, thì chính dân Ít-ra-en lúc này cũng đã tự xem mình như thế, không còn chút hy vọng gì, và buông xuôi tất cả.

3. Ngôn Sứ Là Người Có Kinh Nghiệm Để Nói Về Niềm Hy Vọng

Khi dân Ít-ra-en đang bế tắc và tuyệt vọng, tự thấy mình như những bộ xương khô đến nỗi cất lên những lời ai ca bi thảm, ắt hẳn Đức Chúa cũng đã rất đau xót đến nổi Ngài cũng bật lên một câu thương trách “sao các ngươi lại muốn chết, hỡi nhà Ít-ra-en?” (Ed 33,11). Đức Chúa nhìn thấy sự cùng cực của dân, khi dân đã tự nhìn nhận rằng nơi họ chẳng còn một ý nghĩa sống nào, chẳng còn một hy vọng cứu chữa nào nữa, Người phán với dân ngang qua vị ngôn sứ của mình rằng: “hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en” (Ed 37,12-13). Đức Chúa đã hành động để phục hồi dân, và Người thực hiện điều này qua tôi trung là ngôn sứ của Người. Trong hoàn cảnh lưu đày, bên cạnh Isaia II, Ê-dê-ki-en đã được Chúa kêu gọi để làm ngôn sứ cho Người, để nâng dậy và mang lại niềm hy vọng cho dân của Đức Chúa.

3.1. Kinh Nghiệm Nhìn Thấy Sự Hiện Diện Của Chúa Trong Nghịch Cảnh

Ngay ở đầu thị kiến, Ê-dê-ki-en thuật lại rằng chính Đức Chúa là Đấng làm chủ và cho ông thấy thị kiến xắp xảy đến. “Tay Đức Chúa đặt trên tôi. Đức Chúa dùng thần khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng” (c. 1a). Những hình ảnh và hành động này được bắt gặp trong các trình thuật thị kiến khác (Ed 1,1-3; 3,22; 8,1; 11,24-25; 40,1-4). Đặc biệt, khi đặt thị kiến bộ xương khô bên cạnh thị kiến Ê-dê-ki-en được kêu gọi và được dành riêng để phục vụ Lời Chúa (Ed 3,22-27), ta thấy có sự song song và tương phản rất rõ giữa công thức mở đầu của hai thị kiến như được chỉ ra sau đây.

 

Thị Kiến Kêu Gọi (Ed 3,22-24)

Thị Kiến Bộ Xương Khô (Ed 37,1-4)

22a

Tay Đức Chúa đặt trên Ê-dê-ki-en

1a

Tay Đức Chúa đặt trên Ê-dê-ki-en

22b,

 

24

Người phán với Ê-dê-ki-en hãy ra thung lũng

Thần khí nhập vào Ê-dê-ki-en

1b

Đức Chúa dùng thần khí đem Ê-dê-ki-en ra, đặt Ê-dê-ki-en giữa thung lũng

23b

Ê-dê-ki-en thấy vinh quang của Đức Chúa

1c-2

Ê-dê-ki-en thấy thung lũng ấy đầy xương cốt, nằm la liệt, khô đét

24

Đức Chúa phán với Ê-dê-ki-en

4

Đức Chúa phán bảo Ê-dê-ki-en

 

Hai khung cảnh cho thấy chính nơi thung lũng, nơi mà sự chết thống trị, nơi phơi bày hậu quả của sự trừng phạt và đau khổ của dân Ít-ra-en (c. 1-2) cũng lại nơi Ê-dê-ki-en đã được kêu gọi. Tại giây phút ban đầu ấy, điều mà Ê-dê-ki-en nhìn thấy không phải là sự chết thống trị nhưng là sự rạng ngợi do vinh quang Đức Chúa hiện diện. Điều này vừa cho thấy sự liên tục vừa cho thấy tính mới mẻ trong ơn gọi và sứ mạng của vị ngôn sứ. Ắt hẳn, chính kinh nghiệm đụng chạm “trực tiếp” với Thiên Chúa thuở ban đầu đó đã làm nền cho toàn bộ ơn gọi và sứ mạng của Ê-dê-ki-en. Nên giờ đây, khi trình bày một khung cảnh hoang tàn bi thương, không có sức sống và vô vọng ở chính thung lũng, Ê-dê-ki-en ngầm chỉ cho dân thấy sự hiện hiện của Đức Chúa ở đó như kinh nghiệm mà ông đã có. Dù thung lũng ấy có đang bị bóng tối tội lỗi thao túng thì Chúa vẫn luôn hiện diện và quan phòng.

3.2. Kinh Nghiệm Về Niềm Hy Vọng Biết Cậy Dựa Nơi Chúa

Tiếp đến, Ê-dê-ki-en như bị chất vấn về xác tín và kinh nghiệm của mình có ở trên khi trình thuật thị kiến tiếp tục với lời Đức Chúa hỏi Ê-dê-ki-en: "Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?”, và Ê-dê-ki-en đã thưa với Đức Chúa rằng “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó" (c. 3). Câu trả lời của Ê-dê-ki-en cho thấy kinh nghiệm và niềm tin vào niềm hy vọng đặt để ở nơi Chúa. Ông bắt đầu bằng một lời tuyên xưng niềm tin và thờ phượng, tuyên xưng Đức Chúa là Chúa Thượng, uy quyền và toàn năng. Sau đó, câu trả lời tiếp nối với một lời cho thấy chính thái độ nội tâm của ông, ông không còn cậy dựa vào điều gì và vào chính mình nữa, vì ông tin rằng chỉ có Chúa biết và chỉ có Ngài mới có thể làm mọi sự. Để có được thái độ nội tâm với lòng xác tín vào Thiên Chúa như vậy, ắn hẳn Ê-dê-ki-en đã phải trải qua nhiều thử thách và tinh luyện trước đó. Quả vậy khi nhìn lại bước đầu giai đoạn ngôn sứ của Ê-dê-ki-en, chúng ta thấy rằng ông đã gặp rất nhiều sự chống đối và loại trừ từ dân. Ông đã sống và trãi qua mối giằng co nội tâm giữa một bên là lời ngôn sứ Chúa truyền phải nói để hạch tội và giúp dân nhận ra tình trạng tội lỗi của mình, với một bên là sự bất lực trước sự cứng lòng và điếc lác của dân. Bên cạnh đó, sự chống đối của các ngôn sứ giả cũng khiến lời của Ê-dê-ki-en bị ảnh hưởng trên dân (Ed 12,2-3). Ê-dê-ki-en bị câm là vì vậy (Ed 3,26). Nhưng Ê-dê-ki-en vẫn luôn cho thấy ông trung tín và chu toàn sứ mạng của mình, vì ông luôn tín thác và đặt niềm hy vọng vào Chúa mà thôi.

Thái độ và niềm tin của Ê-dê-ki-en vào Đức Chúa còn thể hiện khi ông được Chúa tiếp tục sai bảo “ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy” (c. 4), và ông đã vâng lời Đức Chúa. Ê-dê-ki-en dù nhìn thấy sự hoang tàn và dường như vô vọng nơi các xương ấy, vốn là hình ảnh miêu tả tình trạng của dân Ít-ra-en, ông vẫn tín thác vào Đức Chúa và đặt niềm tin vào khả thể dân được phục hồi như Đức Chúa tuyên báo. Trông cậy vào Đức Chúa, Ê-dê-ki-en tin rằng dân có thể được phục hồi. Thế rồi, trong chuỗi những diễn biến của thị kiến, Ê-dê-ki-en tuyên sấm trên các xương khô ấy, và các xương đã được trỗi dậy. Chính Ê-dê-ki-en đã được Chúa chỉ cho thị kiến, và ông đã kinh nghiệm được sự tái sinh nhờ vào quyền năng của Chúa. Trong chính những điều kiện vô vọng và không thể cứu chữa thì Đức Chúa vẫn có thể cứu chữa được. Một lần nữa, chính nơi thung lũng đầy xương vốn vắng bóng sự sống và hy vọng, Ê-dê-ki-en đã tin và kinh nghiệm về quyền năng khuất phục sự chết của Đức Chúa. Vinh quanh của Đức Chúa vẫn hiện diện ở đó, dù bên ngoài đất của dân Ít-ra-en, bên ngoài đền thờ, dù là nơi tội lỗi hay sự chết như thống trị, Đức Chúa vẫn luôn hiện diện và cứu chữa dân. Và đây là bước chuyển trong thông điệp của Ê-dê-ki-en mà ông muốn loan báo cho dân: với Chúa mọi sự đều có thể. [11]  

3.3. Kinh Nghiệm Về Sự Tái Sinh Nhờ Thần Khí

Trong giai đoạn đầu của sứ mạng ngôn sứ, Ê-dê-ki-en đã được kêu gọi làm người canh thức (cf. Ed 3,16-21), để phân tích sự sụp đổ của Giê-ru-sa-lem vào năm 587 và rút ra bài học cho dân. Nhưng ở Ed 33,1-9,  Ê-dê-ki-en lại được kêu gọi một lần nữa làm người canh thức. Điều đó cho thấy sứ mạng loan báo lời hạch tội và phán xét đã hoàn tất, giờ đây, Ê-dê-ki-en trở thành người quan tâm và nhìn thấy những nỗi thống khổ của dân, nhìn thấy sự tuyệt vọng và bi ai của dân, để khích lệ và nâng đỡ. Sứ mạng chính yếu của ngôn sứ luôn luôn là công bố Lời của Chúa cho dân. Lời ấy không bao giờ là cứng nhắc, nhưng luôn gắn với hoàn cảnh của dân, luôn là lời hướng về tương lai và đưa đến niềm hy vọng cho con người. Thực vậy, lời khích lệ an ủi dân không phải chỉ được nói ra trong giai đoạn về sau, lúc thành Giê-ru-sa-lem và đền thờ bị phá hủy, nhưng lời hy vọng ấy đã luôn ấp ủ trong những lời nhắc nhở và hạch tội trước đó (cf. Ed 11,14-21; 16,60-62; 36,26-32…). Đặc biệt, khi dân đã trong cảnh lưu đày, dân như buông xuôi và tuyệt vọng, vị ngôn sứ giờ đây muốn cho dân hiểu và tin vào một sự phục hồi chỉ do bởi Thần Khí của Chúa ban cho.

Ê-dê-ki-en kinh nghiệm về sự sống mới do bởi Thần Khí của Chúa. Trả lời cho dân câu hỏi làm sao dân có thể sống và được phục hồi, thị kiến Ê-dê-ki-en miêu tả cho thấy những bộ xương khô được hồi sinh là nhờ vào uy quyền, nhờ vào Thần Khí của Đức Chúa (cc. 4-10). Cũng vậy, chỉ nhờ bởi thần khí mà dân sẽ được phục hồi (cc. 12-14). “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi” (Ed 37,14). Có thể nói, toàn bộ trình thuật Ed 37,1-14 cho thấy rất rõ chính kinh nghiệm của Ê-dê-ki-en có và muốn truyền lại cho dân rằng: dù trong tình trạng tội lỗi và sự chết, dân cũng sẽ được hồi sinh như những bộ xương khô. Ấy là sự hồi sinh nhờ vào Thần Khí của Đức Chúa. Phân tích đoạn trình thuật Ed 37,1-14 cho thấy tất cả có 7 lần xuất hiện từ  “רוּחַ”. Trong tiếng Do Thái, từ này vừa có nghĩa là “hơi thở” và “gió” và “thần khí”. Nếu đem đối chiếu các câu Ed 37,6.8 với G 10,8.9.11 và St 2, chúng ta sẽ nhận thấy rằng những mô tả ở đây là hình ảnh về một cuộc sáng tạo, hay nói đúng hơn, Ê-dê-ki-en đang mô tả về một cuộc tái tạo bởi Thần Khí sẽ xảy ra với dân.

Ê-dê-ki-en chỉ cho dân thấy rằng nếu dân xem mình là những nắm xương khô thiếu sức sống và tuyệt vọng, thì Chúa có thể hồi sinh nhờ Thần Khí của Chúa, và đem đặt họ trở lại đất Ít-ra-en như đặt con người trong vườn Ê-đen (Ed 37,14).[12] Rõ rằng với khung cảnh sáng tạo như rất thân quen với đọc giả là dân Ít-ra-en,[13] Ê-dê-ki-en cho dân nhận biết rằng chính nhờ Thần Khí được ban, dân sẽ có được một trái tim mới, một trái tim bằng thịt, để tuân giữ những giới luật và trở nên con cái Thiên Chúa (cf. Ed 11,19-20; 36,26-28). Chính trong kinh nghiệm khi không thể tìm thấy bất cứ lý do nào để trả lời cho câu hỏi tại sao Chúa muốn cứu chữa mình như vậy, vị ngôn sứ mời gọi dân ngộ ra Tình Yêu nhưng không của Chúa. Nhờ đó, dân tự thấy rằng mình cần phải thay đổi, cần phải hoán cải và mở lòng ra với ơn đổi mới của Chúa mang đến.

Tóm lại, ngôn sứ là người nhìn thấy và hiểu cho hoàn cảnh của dân, đụng chạm và đồng cảm với những đau khổ và tuyệt vọng của dân. Bên cạnh đó, vị ngôn sứ cũng vẫn tín thác và cậy dựa vào Chúa, vì tin rằng chỉ cho Thần Khí của Chúa mới có thể hồi sinh và là niềm hy vọng cho dân. Ở đây ta thấy rằng vị ngôn sứ muốn gợi lên cho dân kinh nghiệm về niềm hy vọng. Một niềm hy vọng không dựa trên bất cứ điều gì về phía con người, vì nếu còn dựa vào đó thì sẽ thấy vô vọng. Nhưng niềm hy vọng thực sự chính là khi tin nhận và đặt để cuộc đời của mình vào trong tình yêu thương vô điều kiện của Chúa. Tôi đặt hy vọng vào Người vì Người đã luôn yêu thương và đặt hy vọng nơi tôi trước.

Kết Luận

Có thể nói, sống trong hoàn cảnh lưu đày, dân Ít-ra-en đối diện với biết bao khủng hoảng và đêm tối. Họ như những bộ xương khô đét, đã chết, và vô vọng. Thế nhưng trong chính hoàn cảnh bi đát ấy, Thiên Chúa vẫn đồng hành với dân của Người qua trung gian vị ngôn sứ. Ắt hẳn, “sự hiện diện đẹp nhất của các ngôn sứ chính là việc đồng hành với dân của mình trong những thời khắc tăm tối nhất”.[14] Người ngôn sứ thấu hiểu và mang lấy chính những giới hạn của kiếp người, tội lỗi, bất lực nơi dân. Bên cạnh đó, dù sứ điệp có khi là lên án và hạch tội dân, nhưng suy cho cùng là vì ngôn sứ ấy thi hành sứ mạng trung gian. Vị ngôn sứ cũng mang lấy nỗi khắc khoải khôn nguôi và trăn trở của Chúa, luôn quan tâm yêu thương và muốn dân được tốt hơn, luôn luôn hy vọng và hướng dân về một tương lai phía trước, vì vị ngôn sứ xác tín vào quyền năng của Thần Khí và tình thương xót nhưng không của Người.

Ta thấy rằng hình ảnh của ngôn sứ Ê-dê-ki-en được hiện thực và tròn đầy nơi Đức Kitô. Nhìn thấy nổi thống khổ và muốn đến để nâng con người lên, Đức Kitô đã nhập thể. Người “chạnh lòng thương” dân Người (cf. Mt 9,36; 14,14; 15,32; 20,34; Mc 1,41; 6,34; 8,2; Lc 7,13), Người nói “vì Con Người đến để cứu cái gì đã hư mất” (Mt 18,11). Có thể nói, Đức Giêsu chính là Đấng hoàn thành niềm hy vọng tối hậu mà Ê-dê-ki-en đã loan báo (cf. Ed 36,25-29; 37.14, 23), Đấng ban Thần Khí để đổi mới con người, và giúp con người sống giới răn tình yêu.[15] Chính Chúa Giêsu đã chuộc lại mạng sống đáng lẽ phải chết do tội của dân! Người đã xuống hỏa ngục và không có nơi nào Người ko đến. Có thể nói, hỏa ngục là tình trạng khi một ai đó mất đi niềm hy vọng của mình, nhưng chính khi ấy Người cũng đến và mang lại niềm hy vọng cho họ. Chúa Giêsu đã làm cho kẻ chết sống lại (câu chuyện về Lazaro ở Ga 11,38). Nhưng hơn thế, cuộc Vượt Qua và sự Phục Sinh của Người đem lại cho con người ơn sự sống mới.[16] Cho nên, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới” (2Cr 5,17a ).

Là những tín hữu, từ khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy và được trao ban Thần Khí, mỗi người cũng mang lấy sứ mạng trở thành ngôn sứ của Thiên Chúa cho thế giới hôm nay. “Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ” (Cv 2,17). Do vậy, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi để bước theo Đức Ki-tô, và trở nên một trung gian của Thiên Chúa như Ê-dê-ki-en. Khi cần chúng ta sẵn sàng lên tiếng để sửa dạy và khuyên bảo. Nhưng trước hết chúng ta cần có lòng trắc ẩn, biết chạnh lòng thương và đồng cảm với anh chị em của mình, và biết nói lời đem lại niềm hy vọng và nâng dậy chứ không phải ngược lại. Bắt chước Đức Giêsu, chúng ta cần dám tin và đặt hy vọng thậm chí trong những hoàn cảnh thách đố nhất, dám đặt niềm tin vào người anh chị em, và đặt niềm tin vào chính mình nữa, nhờ vào niềm tin và lòng cậy dựa vào Chúa, vì “đối với Thiên Chúa, không gì là không thể làm được” (Lc 1,37).

Cũng vậy, mỗi người tín hữu cần đặt niềm tin vào Thần Khí Chúa, vì “Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống” (Ga 6.63). Khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày nay như giúp con người vươn đến nhiều giới hạn mới, xa hơn lớn hơn, nhưng đó chỉ là những giới hạn trên chiều ngang của các sự vật, của cái có thể làm được và những gì có thể hưởng thụ được. Nhưng mặt khác, chính khi đã chạm đến những giới hạn này, con người dễ cảm thấy hụt hẫng nhưng lại thiếu đi những chỉ dẫn giúp họ đi xa hơn viễn tượng ấy. Thực vậy, chính hiệu quả của Thần Khí Chúa, là bình an, niềm vui, sự sung mãn, tình yêu vị tha, tự do, hy vọng, mới là điều đem lại cho con người giá trị và động lực sống thực sự. “Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an” (Rm 8,6).

Nhiều người hôm nay cũng đang phải đối diện với biết bao cảnh đỗ vỡ và khủng hoảng, mất niềm tin vào cuộc sống và người khác, hay thậm chí không dám đặt hy vọng vào bản thân. Gặp gỡ những hoàn cảnh quá bi đát và đau khổ này, người tín hữu hay cách chung mọi người được mời gọi để đồng cảm và chia sẻ, để đem lại hy vọng và nâng đỡ nhau. Một niềm hy vọng sâu thẳm có được nhờ vào cảm nghiệm sự ân sủng và tình yêu nhưng không được trao tặng trong cuộc đời. Vì khi tôi nhìn thấy những áng mây mù, nghĩa là nơi tôi đã có một ánh sáng ẩn tảng nào đó! Khi sống trong trạng thái này, ắt hẳn mỗi người sẽ đụng chạm và kinh nghiệm được về một niềm hy vọng ngay khi nơi mình chẳng có một lý lẻ và điều gì để hy vọng, và rồi nói lời chia sẻ niềm hy vọng này cho người khác.


Thư Mục Tham Khảo

 

Biwul, Joel Kamsen Tihitshak. The Restoration Of The Dry Bones In Ezekiel 37:1-14. Scriptura 118 (2019:1):110. http://dx.doi.org/10.7833/118-1-1528.

 

Cao, Gia An. “Dấn Thân Xã Hội – Chiều Kích Đặc Trưng Của Ơn Gọi Ngôn Sứ. Hợp tuyển thần học số 52 (2018): 101–139.

 

Eichrodt, Walther. Ezekiel - A Commentary. Philadelphia: The Westminster Press, 1970.

 

Johnston, P.S. “Afterlife”. In the Dictionary of the Old Testament Prophets, edited by Mark J. Boda J. and Gordon McConville, 15. Illinois: Intervarsity Press, 2012.

 

Kinh Thánh Trọn Bộ. Ấn Bản 2011. Bản dịch và chú thích của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ (CGKPV). Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2011.

 

Kutsko, John F. Between Heaven and Earth: Divine Presence and Absence in the Book Of Ezekiel. In Biblical And Judaic Studies From the University Of California (vol 7), edited by William Henry Propp. Indiana: Eisenbrauns, 2000.

 

Lapsley, Jacqueline E. Can These Bones Live? The Problem of the Moral Self in the Book of Ezekiel. New York: Walter de Gruyter, 2000.

 

Manning Jr, Gary T. Echoes of a Prophet, The Use of Ezekiel in the Gospel of John and in Literature of the Second Temple Period. New York: T&T Clark International, 2004.

 

Mein, Andrew. Ezekiel and the Ethics of Exile. New York: Oxford University Press Inc., 2001.

 

Odell, Margaret S. Smyth & Helwys Bible Commentary: Ezekiel. Georgia: Smyth & Helwys Publishing, Inc., 2005.

 

Wong, Ka Leung. The Idea of Retribution in the Book Of Ezekel. Netherlan: Brill, 2001.



[1] Khung cảnh mở đầu trình thuật có sự xuất hiện của các hình ảnh và hành động như “cấu trúc mở đầu” của một thị kiến: “tay Đức Chúa đặt trên tôi” (Ed 1:3; 3:22; 8:1; 40:1), “dùng thần khí đem tôi ra” ( Ed 1,1-3; 11,24-25; 40,1-4). Tuy nhiên, cũng có tác giả cho rằng đây nên được xem là trình thuật xuất thần qua đó Ê-dê-ki-en thực hiện những hành động tượng trưng. Cf. Margaret S. Odell, Smyth & Helwys Bible Commentary: Ezekiel, 454.

[2] Lapsley, Jacqueline E 2000, Can These Bones Live? The Problem of the Moral Self in the Book of Ezekiel, 169.

[3] Có tác giả xem phần cc. 11-14 là phần chú giải. Cf. Walther Eichrodt, Ezekiel - A Commentary, 509.

[4] Nói rằng Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm cho dân như Đức Chúa truyền ở đây là theo nghĩa mặc nhiên. Vì chính trình thuật này tự nó là lời tuyên sấm của Ê-dê-ki-en cho dân Itrael.

[5] Cf. P.S. Johnston, “Afterlife”, 3.

[6] Fensham cho rằng phép ẩn dụ Ê-dê-ki-en dùng khi so sáng dân Itrael với những xương khô cần được đọc dưới sự soi sáng về những “hình phạt đối với kẻ phản loạn ở vùng Cận Đông thời cổ đại” (ancient Near Eastern treaty curses). Khi kẻ phản loạn phải chịu sự trừng phạt thậm chí sau khi đã chết. Do đó, hình ảnh thung lũng đầy xương ám chỉ đến sự bất trung và phản bội của dân Giu-đa trong giao ước với Đức Chúa. Cf. Margaret S. Odell, Smyth & Helwys Bible Commentary: Ezekiel, 449-450.

[7] Ka Leung Wong, The Idea of Retribution In The Book Of Ezekel, 248.

[8] Cf. Margaret S. Odell, Smyth & Helwys Bible Commentary: Ezekiel, 453.

[9] Ê-dê-ki-en mô tả tình trạng của những bộ xương là rất khô (37,2). Trạng từ được dùng để mô tả là “rất” (ASV, ESV, GNV, KJV, NAS, NET, NIV, NKJ, NRS, RSV, TNK, YLT), “hoàn toàn”  (NJB, NLT). Cf. Joel Kamsen Tihitshak Biwul, “The Restoration Of The Dry Bones In Ezekiel 37:1-14”, 4.  

[10] Cf. Margaret S. Odell, Smyth & Helwys Bible Commentary: Ezekiel, 453.

[11] Walther Eichrodt, Ezekiel - A Commentary, 507.

[12] Tác giả quan niệm rằng hình ảnh Chúa đem dân Ít-ra-en trở về đất của mình giống như hình ảnh Chúa lại đặt con người vào vườn Ê-đen của Người. Cf. John F. Kutsko, Between Heaven And Earth - Divine Presence And Absence In The Book Of Ezekiel, 133-134.

[13] Andrew Mein, Ezekiel and the Ethics of Exile, 217. Tác giả cho rằng ý nghĩa diễn đặt của những hình ảnh mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en sử dụng vốn đã quen thuộc với đọc giả là dân Ít-ra-en.

[14] Cao Gia An, “Dấn Thân Xã Hội – Chiều Kích Đặc Trưng Của Ơn Gọi Ngôn Sứ”, 129-130.

[15] Gary T. Manning Jr, Echoes of a Prophet, The Use of Ezekiel in the Gospel of John and in Literature of the Second Temple Period, 170.

[16] Ê-dê-ki-en cũng được gọi là “con người” như Chúa Giêsu được gọi sau này (Ed 37,3.9.11). Manning cho rằng cách thánh sử Gioan miêu tả Chúa Giêsu như là tác nhân của sự sống mới và là sự phục sinh khởi đi từ sách Ê-dê-ki-en. Cf. Gary T. Manning Jr, Echoes of a Prophet, 163-164.