Mạc khải
như là lịch sử là gì? Ưu và khuyết điểm của mô hình mạc khải này?
Tóm dịch từ: Avery Dulles, SJ, Models Of
Revelation, (New York: Doubleday & Company, 1983), 53-67.
Vào cuối
thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, với việc tìm hiểu Thánh Kinh nở rộ, phong trào thần
học với một quan niệm mới về mạc khải đã lớn mạnh và được nhiều người ủng hộ. Phong
trào này phê phán cách hiểu về mạc khải hiện có vì cho rằng nó mang tính giáo
điều. Họ cho rằng mô hình mạc khải này khiến người tín hữu chỉ lo học thuộc
kinh, giáo thuyết mà không thật sự đọc Thánh kinh và gặp gỡ Chúa. Thay vào đó,
họ cho rằng Thánh Kinh không chỉ là tập hợp các mệnh đề, lời dạy; mà là tường
thuật, kể lại những hành động của Thiên Chúa. Mạc khải chính yếu là các biến cố
trong lịch sử cứu độ. Có những quan điểm tiêu biểu của mô hình mạc khải này như
sau:
Mạc khải xét như là biến
cố trong thần học Anh-Mỹ
Temple,
khi phê bình mô hình thứ nhất, cho rằng những tín điều và giáo lý tùy thuộc vào
những biến cố mạc khải vốn xảy ra trước và chúng được rút ra từ biến cố đó. Các
biến cố bao giờ cũng phong phú hơn những gì trình bày về chúng. Ví dụ, chúng ta
không tài nào có thể nói hết về một biến cố nào đó cho một người khác. Cũng vậy,
ông cho rằng không hề có chân lý mạc khải. Những tín điều và giáo lý chỉ như là
những bảng chỉ đường cho người ta biết phải tìm kiếm mạc khải ở đâu. Do đó, Thánh
Kinh cũng không phải là mạc khải, mà là một ghi chép về mạc khải. Thánh Kinh ấy
cũng không phải là không sai lầm. Tuy nhiên, Temple cũng tránh xem mạc khải chỉ
là những biến cố khách quan. Các biến cố đó cần được hiểu là sự tỏ lộ của Thiên
Chúa. Khi đó, một nghĩa thứ yếu khác của mạc khải là những soi sáng về những điều
được mạc khải.
Thứ đến,
G. Ernest Wright (phân tích Thánh Kinh) nhấn mạnh Thiên Chúa hành động hơn là Thiên
Chúa nói. Phương tiện mạc khải chính yếu là các biến cố lịch sử. Do đó Thánh
Kinh không phải là Lời Thiên Chúa nhưng chính yếu là ghi lại những hành động của
Thiên Chúa và những đáp trả được hành động đó gợi lên. Ông trích dẫn từ Thánh
Kinh và cho thấy rằng một số đoạn Thánh Kinh không nói về Thiên Chúa và các thuộc
tính của Ngài, hoặc nói về Thiên Chúa nhưng không theo cách nói bằng những ý niệm
trừu tượng. Trên nền tảng Thánh Kinh, ông kết luận rằng Thiên Chúa mạc khải
không qua những kinh nghiệm thần bí mơ hồ nhưng qua những biến cố lịch sử khách
quan. Chúa tỏ mình ra cho toàn thể nhân loại. Do đó, mục đích của thần học là
đưa Giáo Hội trở lại với trình thuật nguyên sơ về những hành động của Thiên
Chúa. Giống như Temple, ông còn cho rằng việc diễn giải cũng là một phần cùng với
hành động là mạc khải của Thiên Chúa.
Quan niệm về Mạc khải và
Lịch sử cứu độ của Cullmann.
Cullmann
cho rằng Thánh Kinh là câu chuyện về công cuộc cứu độ của Thiên Chúa và có ba
giai đoạn trong tiến trình mạc khải. Thứ nhất là biến cố đơn thuần, thứ đến là
sự khai mở dành cho nhà ngôn sứ thấy để hiểu biến cố ấy, và sau cùng là sự kết
hợp trong trí hiểu nơi vị ngôn sứ giữa biến cố mới ấy và những gì được mạc khải
trước đó trong lịch sử cứu độ. Nơi ông có sự đan xen giữa hai khái niệm về mạc
khải. Mạc khải là biến cố xảy ra cùng với sự giải thích có linh hứng. Mạc khải
còn là sự khai sáng cho các ngôn sứ để nhận ra và giải thích về biến cố, với sự
hướng dẫn của Thánh Thần. Tuy nhiên, khác với hai quan điểm trên, dù theo cách
nói biến cố đi trước sự giải thích nhưng ông xem sự giải thích các biến cố có
tính thiết yếu, và các biến cố không tự giải thích cho chúng. Giống như Temple,
ông cho rằng các biến cố chỉ tỏ lộ ý nghĩa siêu nhiên chỉ khi chiêm ngắm bằng đức
tin.
Pannenberg: Mạc khải như
là lịch sử
Wolfhart
Pannenberg (thế kỷ 20) hiểu mạc khải mang tính lịch sử. Ông phê bình những tư
tưởng về mạc khải như lịch sử ở thế kỷ 19 chỉ là nửa vời. Cụ thể, ông phê
bình quan niệm về "một lịch sử cứu độ tách rời hẳn lịch sử thường" của
Cullmann. Đối kháng lại với những tư tưởng trước, ông chủ trương sự đồng nhất
chặt chẽ giữa mạc khải và lịch sử. Mạc khải không ở trong một phần nhưng trong
toàn bộ lịch sử. Ngược lại với Cullmann, ông cho rằng các biến cố tự giải thích
cho chúng, không cần phải được minh giải bằng một sự khai mở thêm. Do đó không
cần có sự soi sáng này để hiểu về chúng, chỉ cần lý trí tự nhiên là đủ. Tóm lại,
ông cho rằng mạc khải không bao giờ xảy ra ngoài biến cố. Ông không thừa nhận
việc Thiên Chúa tự biểu lộ cách trực tiếp qua sự xuất thần hay lời nói. Thiên
Chúa luôn mạc khải cách gián tiếp. Chống lại mô hình mạc khải như những tín điều,
ông cho rằng Lời được hiểu như là một phương diện của mạc khải và được liên kết
với các biến cố.
Ưu và khuyết điểm của mô hình mạc khải
này
Mô hình
mạc khải này trước hết mang lại những giá trị tôn giáo thực tiễn. Khi nhấn mạnh
hành động của Thiên Chúa, mô hình này nhấn mạnh đến tương quan rõ nét hơn giữa
người tín hữu với Thiên Chúa. Chính khi chiêm ngắm hành động của Chúa tỏ lộ
tình yêu của Người, họ được thúc đẩy để đáp trả lại cách sâu xa hơn, đi vào mối
tương quan mật thiết, sống động hơn với Thiên Chúa. Mặt khác, cách hiểu mạc khải
này thúc đẩy thần học Thánh Kinh phát triển ở một số điểm. Nó giúp ta chú ý
Thánh Kinh hơn, đọc và hiểu Thánh Kinh cách phong phú hơn. Khi ấy các sách lịch
sử và ngôn sứ, các bản văn khải huyền còn được xem như là những giải thích của
lịch sử. Các sách Tin Mừng đều tập trung vào những hành động mà Thiên Chúa biểu
lộ cho dân. Hơn nữa, mẫu thức này mang tính năng động hơn mẫu thức mạc khải như
là tín điều. Nếu mô hình một có khuynh hướng trình bày mạc khải như một cơ cấu
xác định và đồng nhất, mô hình hai nhìn toàn bộ mạc khải trong những giai đoạn
kế tiếp nhau, nối kết nhau cách linh động. Các tín hữu dù ở thời đại nào và thuộc
nền văn hóa nào cũng có thể tham dự vào biến cố mạc khải đã xảy. Như vậy, mô
hình này vừa gìn giữ gốc rễ của mình vừa mang lại tính liên tục của truyền thống.
Do đó, nó ít có tính độc đoán và mang tính thuyết phục hơn cho nhiều người. Khi
ấy họ được thúc đẩy tự kiểm nghiệm những biến cố mạc khải, và sự đón nhận mạc
khải không phải là hành vi mù quáng, nhưng hợp lý nữa.
Khuyết
điểm của mô hình này là gặp khó khăn khi trả lời cho câu hỏi đâu là biến cố mạc
khải. Vì không phải biến cố nào cũng là mạc khải (Vd: biến cố tội lỗi: ông
Giuđa và bà Tamar; biến cố vô thưởng vô phạt). Hoặc khi trả lời cho câu hỏi đâu
là ý nghĩa của biến cố mạc khải, họ có nguy cơ mơ hồ, chủ quan, khó xây dựng
tính liên tục và đồng nhất. Đặc biệt, mô hình này dẫn đến nguy cơ xem nhẹ Lời,
đặc biệt là những lời đã được kết tinh trong giáo lý truyền thống của Giáo hội.
Vì trong Thánh Kinh, Thiên Chúa quả có nói/ban các chân lý; nhiều khi sứ điệp
là yếu tố chính của biến cố mạc khải; nhiều khi lời soi sáng cho biết ý nghĩa
đích thực của biến cố. Lời là yếu tố quan trọng của cuộc sống con người. Mặt
khác, việc cho rằng 'những lời nói và thị kiến là không quan trọng' là võ đoán.
Vì trong Ds 12,6-8, Chúa nói rằng Chúa giúp các tiên tri nhận biết Người qua thị
kiến, và Người nói miệng đối miệng với Môsê; hoặc các sách Sáng Thế, Xuất Hành,
lụt Hồng Thủy không thể hoàn toàn được xếp và sách lịch sử theo cách hiểu phổ
thông hiện nay.
Kết luận
Tóm lại,
mô hình mạc khải này dựa trên lý luận cho rằng con người hiểu về nhau hơn qua
hành động chứ không qua lời nói. Thiên Chúa là ngôi vị, do đó Người tự tỏ lộ
qua các biến cố hơn là các giáo thuyết. Giáo thuyết là phụ vì được rút ra từ biến
cố. Khi đó, Thánh Kinh là quan trọng nhưng không là hệ thống giáo lý, mà ghi lại
các biến cố Thiên Chúa hành động. Mô hình này muốn giúp người tin hữu đọc Thánh
Kinh theo cách đưa họ về với chính biến cố gốc của lịch sử cứu độ, khi ấy mới
có thể gặp được mạc khải của Thiên Chúa. Như vậy, theo mô hình hai, tín hữu gặp
được mạc khải khi sống lại, đi vào, và tham dự vào biến cố mạc khải ấy.
Mặt
khác, giống như mô hình một, mô hình này có những ưu và khuyết điểm của nó khi
hiểu về mạc khải. Do đó, ắt hẳn cần cả hai mô hình trên để bổ túc cho cách hiểu
về mạc khải. Có thể xem cả hai như là mô thể và chất thể của mạc khải, và có mối
thống nhất bên trong với nhau (theo Vat II). Ta thấy rằng lời và hành động luôn
có mặt trong nhau. Ví dụ, bất cứ khi nào ta hành động, thì hành động ấy mang một
ý nghĩa trình bày, mang đặc điểm của lời. Và ngược lại, khi viết hay nói thì có
một năng lực được tạo ra trong lịch sử thế giới. Trong Thánh Kinh cũng vậy, Lời
Chúa không bao giờ là trống rỗng nhưng luôn mang năng lực sáng tạo, và hành động
của Chúa vừa bằng Lời vừa bằng hành vi. "Ngôi Lời đã trở thành xác thịt"
(Ga 1,14) diễn tả đặc tính lời của biến cố Nhập Thể; các môn đệ đã nghe, đã thấy,
đã sợ mó được "lời hằng sống" (1Ga 1,1). Trong tiếng Do Thái, từ dabar
vừa có nghĩa là lời vừa có nghĩa là biến cố cũng cho thấy tính lưỡng diện này.
0 Comments:
Đăng nhận xét