Tóm dịch từ: Avery Dulles, SJ, The Assurance Of Things Longed For, (New York: Oxford University Press,1994), 170-223.
Bài viết xoay quanh chủ đề đức tin, với các vấn đề như "có nhiều quan điểm về đức tin (I); vậy bản chất (II), đối tượng (III), và nền tảng (IV) của đức tin là gì? và các điều khác (V) liên quan đến đức tin.
I. Có Nhiều Câu Trả Lời Cho Câu Hỏi "Đức Tin Là Gì? -
Các Mẫu Thức Đức Tin
Cách chung nhiều quan điểm đồng ý rằng "đức
tin" Kitô Giáo chỉ về tương quan cứu độ mà con người bước vào khi đáp lại
mạc khải của Thiên Chúa. Tuy nhiên, ngoài điều này ra có nhiều trả lời khác biệt
cho câu hỏi "đức tin là gì?". Có thể phân loại theo các mẫu thức
như sau:[1]
1. Mẫu thức mệnh đề
-
Đây là quan điểm của số đông thần học
gia.
-
Quan niệm rằng đức tin là việc chấp nhận
các chân lý mạc khải.
-
Các chân lý này được thể hiện dưới dạng
các mệnh đề, diễn tả bằng ngôn từ và câu chữ.
-
Mệnh đề không phải là câu nói hay câu
viết mà là ý nghĩa hoặc lời khẳng định chân lý trong những câu mang tính tuyên
bố. Ví dụ, “Chúa đã sống lại ”.
-
Mẫu thức này gắn với quan niệm về mạc
khải theo mô hình giáo thuyết (mô hình 1).
Ưu
điểm:
-
Mang lại thẩm quyền cho Kinh thánh và
căn tính vững chắc cho Giáo hội như một cộng đoàn đức tin. Vì chân lý đức tin theo
mô hình này rõ ràng và phổ quát trong toàn Giáo hội.
-
Cho phép đức tin xuất hiện như một câu
trả lời cho những câu hỏi dai dẳng và rắc rối về ý nghĩa và cùng đích của cuộc
sống.
Khuyết điểm:
-
Có xu hướng nhắm vào chính các mệnh đề hơn
là chính thực tại đạt được nhờ chúng. Nhắm vào việc biết và thuộc giáo lý hơn là
hướng tới thực tại đức tin phong phú và sống động.
-
Hơn nữa, họ thường bỏ qua những chiều
kích tiềm ẩn và huyền bí của tri thức nhân loại. Quả thực "chúng ta biết
nhiều hơn những gì chúng ta có thể nói".
-
Hơn nữa, người tín hữu không chỉ đón nhận
Lời Chúa; nhưng còn phải tin cậy nơi Ngài, yêu mến Ngài, và tuân giữ các điều
răn của Ngài.
2. Mẫu thức siêu nghiệm
-
Đức tin không hoặc không thiết yếu là sự
chấp nhận các chân lý cụ thể, mà là một chân trời nhận thức mới, là năng động
tinh thần hướng về Thiên Chúa, cho phép người ta nhìn thấy và chấp nhận những
chân lý ấy.
-
Họ phân biệt giữa chúng tôi tin
(fides qua creditur) và điều được tin (fides quae creditur). Mô hình này
nhấn mạnh hơn đến chúng tôi tin, nhấn mạnh tương quan gần gũi với Thiên
Chúa.
-
Vai trò của tính chủ thể trong đức tin
được nhấn mạnh hơn.
-
Gắn với mô hình mặc khải như một nhận
thức mới (mô hình 5).
Ưu điểm:
-
Việc xác định đức tin như một thái độ
thiêng liêng không phụ thuộc vào việc chấp nhận sứ điệp Kinh Thánh khiến cho việc
giải quyết vấn đề cứu rỗi những người chưa được phúc âm hóa trở nên tương đối dễ
dàng, vốn gây khó khăn cho các nhà thần học theo mô hình trên.
Khuyết điểm:
-
Mâu thuẫn với quan niệm xem đức tin như
sự đáp trả đối với điều được công bố (fides ex audu) trong Thánh Kinh và truyền
thống.
-
Nó đặt ra câu hỏi liệu một hành động đức
tin đúng và đủ có thể được thực hiện mà không có bất kỳ mặc khải trong lịch sử
hay không.
-
Không rõ ràng về việc hiểu các học thuyết
trọng yếu của Kitô giáo, chẳng hạn như Chúa Ba Ngôi và Sự nhập thể, là vấn đề của
đức tin hay không.
3.
Mẫu thức tin cậy
-
Đặc trưng của nhánh Tin lành.
-
Tách khỏi thuyết duy lý của hai lập trường
đầu tiên, mô hình này xác định đức tin gắn chặt hơn với niềm xác tín và trông cậy,
nhấn mạnh tới ý chí và con tim thay vì nhận thức.
-
Quan điểm này có cơ sở vững chắc trong Thánh
Kinh. Theo họ, các thuật ngữ như pistis cần được chuyển dịch sang tiếng
Anh là “sự tin tưởng”(trust) hơn là “niềm tin”(faith).
-
Gắn với mô hình mặc khải như là biến cố
(mô hình 2): nhấn mạnh tương quan, sống.
Ưu điểm:
-
Dựa trên cơ sở Kinh thánh và truyền thống
để đưa yếu tố tin tưởng hoặc hy vọng vào định nghĩa của đức tin.
-
Nhấn mạnh thêm 2 yếu tố tín thác và hy
vọng trong mô tả về đức tin. (GH lấy lại yếu tố này).
Khuyết điểm:
-
Đặc biệt có khuynh hướng phủ nhận rằng
sự chấp nhận chân lý mạc khải là một hành vi của đức tin (chống lại truyền thống,
cũng như quan niệm của Giáo hội ngày nay về điểm này).
4. Mẫu thức kinh nghiệm-cảm xúc
-
Quan niệm này nhấn mạnh đến đặc tính cảm
xúc trong đức tin và mối liên hệ chặt chẽ giữa đức tin và kinh nghiệm. Con người
hướng về Thiên Chúa trong nội tâm, "lý lẻ của con tim" (Pascal), gắn
với kinh nghiệm thần bí (các giáo phụ), kinh nghiệm nghịch lý (E. Schillebeeckx).
-
Gắn với mô hình mặc khải như kinh nghiệm
nội tâm (mô hình 3).
Phê bình:
-
Xem nhẹ mạc khải trong lịch sử, Thánh
Kinh, và thánh truyền.
-
Một số rơi vào chủ nghĩa cá nhân, làm
suy yếu chiều kích giáo hội của đức tin. Vì thiếu đi cơ sở để xem đâu là mặc khải
hay đức tin chân thật, và đâu là nền tảng cho những năng lực kinh nghiệm nội
tâm như thế.
5. Mẫu thức phục quyền
-
Đức tin là sự phục quyền Thiên Chúa, Đấng
uy quyền và làm chủ mọi sự, và luôn đi bước trước trong hành động cứu độ.
Phaolô: “sự vâng phục của đức tin” (Rm 1,5; 16,26).
-
Gắn với mô hình mặc khải như là sự hiện
diện nghịch lý của Thiên Chúa (mô hình 4).
-
Nổi bật có Karl Barth, Rudolf Bultmann,
Dietrich Bonhoeffer
-
Hầu hết họ hiểu vâng lời không phải
theo nghĩa thực hiện các mệnh lệnh cụ thể mà theo nghĩa rộng trong Kinh thánh (hypakoe,
oboedientia) như một tiếng nói tôn kính và vâng lời.
Phê bình:
-
Sự vâng lời không cần nhất thiết loại
trừ niềm tin (faith) hay sự tin tưởng (trust) như họ quan niệm, nhưng chúng có
thể cùng tồn tại với nhau. Vì tín thác dẫn đến phục quyền, phục quyền vì tín
thác.
-
Mô hình này đặt trọng tâm vào việc người
tín hữu hoàn toàn phục tùng ý định tối cao của Thiên Chúa. Điều này có thể được
chấp nhận như một điểm chính của giáo lý Kitô giáo, với điều kiện là quyền của
Thiên Chúa không được mô tả khiến làm mất đi quyền tự do của con người.
6. Mẫu thức thực hành
-
Quan điểm thần học giải phóng.
-
Quan niệm đức tín là đưa đến hành động
biến đổi thế giới trở nên tốt hơn, công bình hơn, giải thoát người áp bức và
nâng đỡ người nghèo, khắc phục sự tha hóa trong xã hội.
-
Johann Baptist Metz, Gustavo Gùtiérrez,
-
Quan tâm đến bối cảnh của một tình huống
cụ thể, đó là xã hội đương thời.
-
Niềm tin không phải là một vấn đề thuần
túy nội tâm hay cá nhân.
Phê bình:
-
Hầu như các nhà thần học Kitô giáo đều
đồng ý với mong muốn rằng đức tin dẫn đến hoạt động vì một trật tự xã hội tốt
hơn. Nhưng nhiều người muốn định nghĩa đức tin cụ thể hơn như một sự chấp nhận
nội tâm đối với Lời Chúa. Một người có đức tin không nhất thiết phải có bất kỳ
cam kết cụ thể nào để thay đổi trật tự xã hội.
-
Khó khăn hơn nữa nảy sinh khi sự dấn
thân xã hội vốn được hiểu theo gốc nhìn phân tích xã hội khác nhau. Chắc hẳn
không phải ai cũng đồng ý với nhau rằng chủ nghĩa tư bản là nguyên nhân của
nghèo đói và khốn khổ.
-
Khái niệm đức tin phải đủ rộng để bao gồm
những người có triết lý xã hội khác nhau.
7. Mẫu thức tương quan vá vị
-
Xem đức tin trong mối quan hệ cá vị và
yêu thương với Thiên Chúa, vốn mang lại một phương thức sống và hiện hữu cho
con người.
-
Các thần học gia nổi bật: Jean Mouroux,
Henri de Lubac, Hans Urs von Balthasar, Paul Tillich
Phê bình:
-
Ưu điểm: có lợi thế là hạn chế được sự
phân mảnh có thể nảy sinh từ việc xác định đức tin theo các khía cạnh và chức
năng như các mô hình trước đây. Suy cho cùng, đức tin là một mối tương quan cá
vị sâu sắc với một Thiên Chúa ngôi vị, gắn với suy nghĩ, cảm nhận và ý chí.
-
Khuyết điểm: dù đức tin như là mối tương
quan cá vị vốn hội nhất như họ quan niệm, đức tin vẫn có thể có các khía cạnh
khác nhau như hiểu biết, tin cậy và hành động, niềm hy vọng, sự giữ luật, vốn
không phải như là những thành phần cấu thành, nhưng là chính năng động đức tin.
II. Vậy Bản Chất Của Đức Tin Là Gì?
1.
Nhận Định Về Sự Đa Dạng
Của Các Mẫu Thức Đức Tin
Những khác biệt của bảy mô hình trên
có thể được làm rõ khi nhìn đến nguyên nhân: Khác nhau trong cái nhìn về vai
trò của Chúa trong nguồn gốc của đức tin.
-
Trong mẫu thức Mệnh Đề, Thiên
Chúa là người thầy; những lời tuyên bố của Ngài phải được chấp nhận vì thẩm quyền
của Ngài.
-
Trong mẫu thức Siêu Việt, Thiên
Chúa là người khai sáng trong nội tâm mỗi người.
-
Trong mẫu thức Tin Cậy, Thiên
Chúa là Đấng nhân từ, vì là Đấng giữ lời hứa.
-
Theo mẫu thức Kinh Nghiệm-Cảm Xúc,
Thiên Chúa là người tình, chạm đến trái tim của những ai tìm kiếm Ngài.
-
Trong mẫu thức Phục Quyền, Thiên
Chúa là đấng cai trị được tôn kính; lời của Ngài là mệnh lệnh.
-
Trong mẫu thức Thực Hành, Ngài
là nhà giải phóng vĩ đại, người tiếp thêm sức mạnh cho những người đấu tranh chống
lại bất công và áp bức.
-
Cuối cùng, theo mẫu thức Tương Quan Cá
Vị, Thiên Chúa là nguồn sống luôn trao ban ân sủng, Đấng lôi kéo người khác
đến với vinh quang của chính mình.
ð Do
đó, ắt hẳn có một thực tại phức tạp, độc nhất có các khía cạnh khác nhau, có thể
được gọi một cách chính xác là đức tin. Đức tin bén rễ ở tầng sâu nhất của
nhân tính con người.
·
Đức tin không mất đi bản sắc của nó,
khi có tất cả các chiều kích này.
·
Khi đó các “mẫu thức” đức tin khác nhau
nên được coi là hợp lý, không mâu thuẫn nhau.
·
Tất cả mẫu thức phải được giải thích
theo cách để cho phép chúng được bổ sung bởi những mẫu thức khác. Cần phê bình
lẫn nhau để điều chỉnh cho phù hợp trong tổng thể.
2.
Bản chất đức tin – 3 chiều
kích
Sau khi đưa ra những nhận định về sự
khác biệt và điểm 'chung' của nhiều quan điểm về đức tin ở trên, vậy câu hỏi được
đặt ra tiếp đến là "đâu là bản chất của đức tin"?
-
Thuật ngữ "tin" thường được sử
dụng theo nghĩa chung là sự chấp nhận là đúng hoặc có thật đối với bất kỳ điều
gì không được chứng minh hoặc chứng minh ngay lập tức, là một thành
phần trong hầu như tất cả kiến thức và hoạt động của con người. Tin hướng đến
một hướng nhìn của toàn bộ con người và thang giá trị của người đó. Cách đặc biệt,
thuật ngữ “tin” liên quan đến sự tin tưởng vào người khác, gắn với tình yêu và
sự trung tín.
-
Theo nghĩa thần học,
o Đức
tin bao gồm mọi đặc nét liên quan đến ý nghĩa nhân linh của thuật ngữ
này.
o Nhưng
trên hết, đức tin là sự đáp lại Thiên Chúa khi Người hành động và tỏ mình ra.
o Vatican
II định nghĩa: "Đức tin được coi là sự đáp trả đầy nồng
nhiệt đối với sự tự hiến của Thiên Chúa, tin cậy vào sự giúp đỡ cứu rỗi của
Ngài, phục quyền, và đón nhận lời mặc khải của Ngài." Các khía cạnh như sự
tin tưởng, vâng phục và đón nhận mặc khải ở đây được hội nhất một cách hài hòa
trọn vẹn nơi cá nhân.
-
Đức tin có thể được định nghĩa không chỉ
như một hành động mà còn như một tập quán (stable disposition / habitus). Hay
Vatican I gọi đức tin là nhân đức siêu nhiên.
-
Đức tin liên kết rất chặt chẽ với hy vọng
và tình yêu nhưng không hoàn toàn đánh đồng đức tin với chúng. Ba nhân đức đối
thần - đức tin, cậy, mến không tách biệt nhưng hội nhất với nhau.
Do đó, đức tin được mô tả với 3 chiều
kích.
o Vatican
I lấy lại tư tưởng của thánh Tôma hay Augustinô, nhấn mạnh yếu
tố nhận thức (cognitive) nhưng cũng không loại trừ chiều kích cảm (xác tín), và
sống, phân biệt ra 3 chiều kích của đức tin, (S. Th., 2-2.2.2). Đức tin có đối
tượng mô thể (credere Deo) và đối tượng chất thể (credere Deum).
Đức tin là hướng vào Thiên Chúa (credere in Deum).
o Sau
đó, Vatican II nhấn mạnh hơn đến yếu tố tín thác và dấn thân. Phân biệt
3 chiều kích đức tin: đón nhận mặc khải, xác tín vào Chúa, và dấn thân.
Bên cạnh đó, có hai nghĩa đức tin: khái
niệm đức tin có thể chỉ về nội dung đức tin (fides quae / các chân lý mặc
khải), và hành vi đón nhận, tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa (fides qua).
III. Đối tượng của đức tin
Đức tin có đối tượng mô thể (credere Deo)
và đối tượng chất thể (credere Deum).
1. Đối tượng mô thể của đức tin
-
Đối tượng mô thể của đức tin nói lên tư
cách và nguyên nhân của đức tin.
-
Đối tượng mô thể hay năng động nội tại
của đức tin chính là chính Thiên Chúa, Đấng mặc khải (Thánh Tôma). Ngài không
chỉ là Thiên Chúa nội tại nơi chính Ngài, nhưng còn là Thiên Chúa tỏ ra cho con
người, là ơn cứu độ cho con người.
-
Hay nói cách khác, đối tượng mô thể của
đức tin là thẩm quyền tối cao (auctoritas) của Thiên Chúa, Đấng mặc khải. Đức
tin như là sự đón nhận mặc khải của Thiên Chúa vì Ngài không lừa dối, tín
thác vào Ngài vì Ngài đáng tin cậy và trung tín trong lời hứa, và tuân
theo vì Ngài uy quyền.
2.
Đối
tượng chất thể của đức tin
-
Đối tượng chất thể là nội dung của đức
tin (tin vào điều gì). Đối tượng chất thể của đức tin là cái được tin tưởng nhờ
bởi đối tượng mô thể (credere Deum).
-
Đối tượng chất thể hình thức của
đức tin là chính Thiên Chúa, Đấng Cứu Rỗi của chúng ta. Nhưng đối tượng chất thể
bao gồm tất cả những gì Thiên Chúa đã phán, đặc biệt là những gì Ngài mặc khải
qua Chúa Giêsu Kitô, “Đấng trung gian và viên mãn của mọi sự mặc khải”. Đức
Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, là trung gian và là mạc khải trọn vẹn (DV 12), là nội
dung trung tâm của đức tin. Nội dung của sự mặc khải trở nên hoàn chỉnh một
cách khách quan với sự kiện Đấng Christ như được giải thích bởi Giáo hội các
tông đồ (Vatican II).
Tóm lại, đối tượng chất thể và mô thể của
đức tin luôn tương quan và không thể tách rời nhau. Thiên Chúa vừa là đối tượng
mô thể và chất thể của hành vi đức tin. Vì Thiên Chúa là đối tượng cuối cùng và
là lý do cuối cùng của hành vi đức tin.
Đức tin là một hành vi siêu nhiên,
vì tin vào Thiên Chúa, tin vì chính Thiên Chúa tự tỏ mình ra, (và tin có Thiên
Chúa).
IV. Nền tảng của Đức tin
Khi đức tin được hiểu rằng là sự đón nhận
chân lý mặc khải và xác tín vào Thiên Chúa, vậy câu hỏi được đặt ra là "đâu
là cơ sở để xác thực rằng nội dung đức tin được đón nhận ấy là lời của Chúa, và
điều gì khiến tôi xác tín về quyền năng của Thiên Chúa"? Hay "nền
tảng của đức tin là gì?"
Phần này khảo sát nền tảng đức tin với
2 câu hỏi "đức tin có dựa trên lý trí?" và "đức tin dựa
trên kinh nghiệm?", để đi đến kết luận.
1. Đức tin dựa trên lý trí?
1.1. Tương quan
đức tin - lý trí: Nhiều cái nhìn khác nhau
Có thể nói đây là vấn đề tương quan
giữa đức tin và lý trí đã được đề cập nhiều nhất và ngay từ đầu trong lịch
sử Giáo Hội.
-
Ngay từ việc vận dụng các phạm trù triết
học Hy Lạp làm nền tảng cho sự suy tư thần học trong thiên niên kỷ thứ nhất và
sau đó. => lý trí con người vs. đức tin Kinh Thánh dựa trên thánh truyền và
huấn quyền.
-
Trong Tân Ước, Phao-lô: sự khôn ngoan của
thế gian trái ngược với đức tin và sự khôn ngoan thánh thiện dựa trên đức tin. =>
Tạo tiền đề cho nhiều cuộc tranh luận sau đó.
Nhìn chung có 2 nhóm quan điểm chính
khi nhìn vào mối tương quan này: nhóm đề cao đức tin trổi vượt trên lý trí
(Fideism): Augustinô, Anselmô và Bênađô; và nhóm đề cao vai trò của lý trí (CN
Duy lý- Rationalism): Abelard (TK XII)…
Nhưng tóm lại, có thể chia thành 3
kiểu tương quan giữa đức tin và lý trí:
-
Hỗ trợ lẫn nhau:
đức tin cao hoặc đức tin cần được hoàn thiện bởi lý trí;
-
Đối nghịch:
đức tin chống lại lý trí, ưu tiên đức tin hơn khi nó xung đột với lý trí;
-
Tách biệt:
không liên hệ với nhau.
Nhận định về nhiều cách hiểu khác nhau
trong mối tương quan đức tin - lý trí
Nhận thấy rằng những cách hiểu khác
nhau về tương quan đức tin - lý trí có thể vì những lý do sau:
i. Đề cập đến những cách
hoạt động khác nhau của lý trí.
-
Những người theo thuyết Platon và
Augustinians quan niệm về một loại lý trí có tính chiêm nghiệm hoặc trực giác
(“lý trí bậc cao") giúp tiếp xúc với chân lý vĩnh cửu.
-
Những người theo thuyết Aristotle và chủ
nghĩa thực chứng nói chung đề cập đến lý trí suy luận ("lý trí bậc thấp"),
theo lối diễn dịch hoặc quy nạp.
-
Một số người theo thuyết suy luận
(inferentialists) quan tâm đến việc chứng minh chân lý của sự mặc khải phân
tách khỏi lý trí; một số khác đi chứng minh tính sai lầm của học
thuyết KTG trên nền tảng lý trí đúng đắn.
-
Nhiều nhà tư tưởng hiện đại phân biệt
giữa lý trí lập luận lôgic và “lý trí của trái tim” (B. Pascal).
ii. Hơn nữa, các nhà thần học nghĩ đến
những trạng thái hiện hữu khác nhau của con người.
-
Những người theo thuyết Tôma quan niệm:
lý trí là chìa khóa để đạt được kiến thức tự nhiên; còn đức tin hướng đến chân
lý siêu nhiên.
-
Lý trí là năng lực thuộc về bản chất sa
ngã của con người. Với họ, đức tin là một sự xác tín vào Tình yêu và lòng
thương xót của Chúa. Đấng ban ân sủng để làm cho họ nên công chính.
iii. Mặt khác, sự khác biệt về ngôn ngữ giữa các nhà tư tưởng cũng là một vấn đề. Vì chúng thường phản ánh những khác biệt thực sự về triết học
và thần học. Nhiều khi do bởi việc sử dụng các thuật ngữ khác nhau, nên một số
mâu thuẫn giữa họ tỏ ra 'trầm trọng' hơn so với thực tế vốn có của nó.
1.2.
Đức tin có cần chứng cứ khả tín do lý trí?
Như đã nói, dù đức tin không chỉ đơn
thuần là nhận thức, nhưng đức tin có chiều kích nhận thức. Ở một khía cạnh nào
đó, sự đón nhận chân lý mặc khải cần cơ sở để chấp nhận rằng sự mặc khải
ấy là sự đáng tin.
-
Những ai chịu ảnh hưởng fideism cho rằng
đức tin có nền tảng của nó, không nên nại đến lý trí.
-
Nhưng ai chịu ảnh hưởng của duy lý
(rationalism) cho rằng đức tin cần phải phù hợp với lý trí.
Vat I có quan điểm quân bình và chống lại
cả fideism và rationalism, trở thành kiểu mẫu cho GH ngày nay.
-
Nội dung đức tin được tin không phải bởi
vì dựa trên những lập luận nội tại của nó, nhưng dựa trên quyền năng của Chúa Đấng
mặc khải (Dei Filius, chap, 3, OS 3008). Mặt khác, mặc khải có những chứng cứ
khả tín của lý trí. (ibid.; DS 3013). Vatican I đã phân biệt giữa “sự trợ giúp
từ bên trong của Chúa Thánh Thần – ân sủng” và “những lập luận bên ngoài” (sđd;
DS 3009).
-
CĐ đưa ra 3 khẳng định: thứ nhất, chân
lý của sự mặc khải không thể được chứng minh bằng những lý lẽ nội tại; thứ hai,
độ tin cậy của chân lý mặc khải có thể được chứng minh; thứ ba, động cơ của đức
tin không phải là sức mạnh của các lập luận mà do quyền năng của Thiên Chúa, Đấng
bày tỏ.
-
CĐ không kết án “acquired faith” (fides
acquisita), và doctrine of “scientific faith".
Tóm lại, Vatican I cho thấy tính hợp lý
của đức tin. Và bao gồm cả 2 yếu tố: ân sủng và lý trí, vốn không phân cao thấp.
Bên cạnh đó, các yếu tố cảm xúc của ý
chí tham gia vào chính quá trình nhận thức trí tuệ. Chiều sâu, sự bền bỉ và sức
sống của khuynh hướng tin tưởng này có thể được coi là những dấu hiệu cho thấy
khuynh hướng đó có nguồn gốc thần linh.
1.3. Đâu là
mối tương quan giữa tính khả tín và động năng đức tin?
Về điểm này, có một sự phân chia sâu sắc
giữa hai trường phái tư tưởng.
-
1. Ân sủng cho phép đọc ra ý nghĩa của
các dấu chỉ để đi đến xác tín đức tin
-
2. Việc phân định các dấu chỉ thụ tạo
chỉ là sự chuẩn bị cho đức tin, và đức tin xuất phát từ quyền năng của Chúa. Một
người có đức tin không phải là nhờ nhận ra các dấu chỉ khả tri từ thụ tạo ("đêm
tối đức tin").
Quan điểm Giáo hội bao gồm cả 2 quan điểm
trên: động cơ duy nhất của đức tin là chính Thiên Chúa, nhưng mặc khải luôn đi
qua trung gian các dấu chỉ thụ tạo.
Ví
dụ: những người mới bắt đầu có xu hướng dựa một cách có ý thức vào những phép lạ
thể chất và những lý lẽ biện hộ; những linh hồn tiến bộ trong đời sống tâm linh
ít chú ý đến những dấu hiệu được tạo ra hơn. Họ chuyển sự chú ý của mình sang Thiên
Chúa,và thường có ấn tượng trực tiếp trải nghiệm sự hiện diện vô hình của Ngài.
2.
Đức tin dựa trên kinh
nghiệm?
Có người
quan niệm đức tin đặt nền trên kinh nghiệm, nhưng cũng có người quan điểm ngược
lại.
-
Những ai quan niệm đức tin đặt nền trên
kinh nghiệm cho rằng đức tin ban đầu đạt được là nhờ một quá trình khám phá mầu
nhiệm, trong đó con người được trợ giúp bởi ân sủng, đã khám phá một chân lý vượt
xa tất cả những gì nó có thể rút ra từ suy luận hợp lý.
-
Cuộc hoán cải đức tin này đem đến nhận
thức kinh ngạc.
Có những bất đồng về quan điểm xem đức
tin có dựa trên kinh nghiệm hay không. Lý do là vì thực tế có nhiều cách hiểu về
bản chất của kinh nghiệm.
-
Lan G. Barbour mô tả 7 kiểu mẫu kinh
nghiệm tôn giáo.
3. Kết luận về nền tảng đức tin
Cả lý trí và kinh nghiệm không chỉ là sự
chuẩn bị cho đức tin, nhưng còn là nền tảng đức tin, và tiếp tục làm cho đức
tin phong phú hơn.
-
Theo một quan điểm nào đó, hành động của
đức tin tự nó là một hành động của lý trí — không phải kiểu lý trí luận lý, mà
là lý trí khám phá (heuristic reason), được thực hiện bởi ân sủng để hướng về
Thiên Chúa. Không có lý trí, người ta không thể tìm thấy Thiên Chúa trong những
dấu chỉ xảy đến cho mình.
-
Cũng vậy, sau khi đã chuẩn bị sẵn đường
dẫn đến đức tin, kinh nghiệm cũng tiếp tục hoạt động trong đức tin. Đức tin thấm
nhuần toàn bộ kinh nghiệm của người tin hữu. Đức tin và kinh nghiệm tác động
qua lại lẫn nhau. Tuy nhiên, không phải chỉ tin khi có những kinh nghiệm sâu
"depth experience". Vd: Thiên Chúa có thể ban cho con người kinh nghiệm
như thế, nhưng Ngài cũng có thể cho phép linh hồn tiến bước, bởi ánh sáng mặc
khải chung như được thông qua Trung gian của Giáo hội.
V. Các vấn đề khác
Phần này tìm hiểu về một vài truy vấn khác
liên quan đến đức tin như sau:
1.
Đức tin là giáo thuyết?
Nhiều thần học gia ngày nay có khuynh
hướng nhấn mạnh yếu tố kinh nghiệm cá nhân hay siêu nghiệm,… và chống lại cái nhìn xem đức tin là việc
đón nhận những giáo thuyết như là chân lý mặc khải (quan điểm truyền thống của Giáo hội).
Nhưng phải thừa nhận rằng dù đức tin
không phải chỉ mang tính giáo thuyết, đức tin ít nhất phải mang nội dung giáo
thuyết nào đó (đức tin có nội dung đức tin).
-
Vd: tin rằng
"Thiên Chúa là Thiên Chúa duy nhất", "Đức Giêsu là Đức Kitô",
con Thiên Chúa,"
-
Dần già, các nội
dung đức tin nền tảng này được tập tóm trong Kinh Tin Kính, được giải thích
trong các tín điều.
-
Những chân lý đức
tin hay giáo thuyết này không là đối tượng độc lập nhưng là một phần cấu thành
nên điều được tin.
Nhưng không phải tất cả giáo lý Giáo hội
là vấn đề đức tin. Chỉ những gì được xem là mặc khải thánh, được xác định trong
Truyền Thống và Thánh Kinh mới là chân lý đức tin. (DS 3011).
2.
Đức tin có tính mệnh đề?
Cũng vậy, thần học ngày nay có khuynh
hướng xem chân lý đức tin thích hợp được diễn tả và hiểu dưới hình thức biểu tượng,
dấu chỉ. Họ đặt câu hỏi: "đức tin có mang tính mệnh đề không?"
Trước hết, ta thấy rằng ngôn ngữ chính
yếu của đức tin tôn giáo không hoặc không cần thiết là mệnh đề.
-
Lời loan báo TM
ban đầu thường truyền tải thông điệp mặc khải bằng ngôn ngữ tượng hình và biểu tượng,
... truyền đạt chân lý đức tin bằng năng lực gợi tả của ngôn ngữ ... Do
đó, cần có sự phản tỉnh để làm sáng tỏ ý nghĩa được tiết lộ trong các hành động
tượng trưng, dụ ngôn, thần thoại và truyền thuyết, vốn được diễn đạt ở dưới các
mệnh đề.
-
Hẳn vậy, ta sẽ gặp khó để hiểu nghĩa
đen của những phát biểu như: eternal Son is “light from light" that Jesus
“descended into hell, and that he “is seated at the right hand of the Father.
Nhưng liệu rằng có thể nói về mặc
khải hay đức tin dưới dạng các mệnh đề? Câu trả lời là có!
-
Thánh Tôma đưa ra câu trả lời thích
đáng: các mệnh đề không phải là đối tượng của đức tin “vì hành động của người
tin Chúa không chấm dứt trong mệnh đề (enuntiabtle) mà trong thực tế [được biểu
thị bằng mệnh đề]; và chúng ta không hình thành mệnh đề ngoại trừ việc có kiến
thức về mọi thứ thông qua chúng.
-
Do đó, mặc dù mệnh đề không phải là đối
tượng thực sự của đức tin, nhưng đức tin có thể được gọi là mệnh đề vì nội dung
của nó có thể được diễn đạt trong các mệnh đề.
Dầu vậy, chúng ta không được nhầm lẫn giữa
các mệnh đề được đặt ra trong tín điều và tín điều với chính đức tin.
-
Các mệnh đề, không phải là đối tượng của
đức tin, nhưng là những công cụ hữu ích và đôi khi cần thiết để đưa tâm trí tiếp
xúc với các thực tại là đối tượng của đức tin.
Do đó, vì lợi ích của việc truyền thông
có hiệu quả, đôi khi Giáo hội có thể phải thay đổi khái niệm và ngôn ngữ mà
Giáo hội rao giảng về chân lý mặc khải của Thiên Chúa.
3.
Đức
tin và niềm tin
Câu hỏi khó khăn: đâu là tương
quan giữa những niềm tin cụ thể và mầu nhiệm đức tin?
Thần học gần đây có xu hướng phân
biệt đức tin và niềm tin. Niềm tin là những diễn tả đức tin vốn phân biệt với đức
tin; niềm tin có thể thay đổi nhưng đức tin bất biến (Roger Haight). Hay những
niềm tin trung gian của đức tin, khái niệm hóa và chuyển thông đức tin; Niềm
tin là những diễn tả về phía con người về mầu nhiệm Thiên Chúa; còn đức tin là
hướng về chính Thiên Chúa. Niềm tin mang tính lịch sử và văn hóa, đa dạng,
nhưng đức tin thì đơn nhất (Lane).
-
Những niềm tin như tín điều, là những công
thức đức tin , vừa mang chiều kích văn hóa xã hội vốn là những đặc điểm con người
chủ quan, nhưng chúng dựa trên mặc khải khách quan.
-
Những giáo huấn về tín điều của Giáo hội
không phải điều gì đó là thuần túy chân lý thánh, cũng không đơn thuần là sản
phẩm của con người. Chúng là những chân lý được mặc khải cách thiêng thiêng được
phản ảnh qua tâm trí con người.
Do đó, sai lầm nếu tách biệt đức
tin và niềm tin như thế đức tin là thánh thiêng còn niềm tin thuần con người. Đức
tin chẳng bao giờ tồn tại mà không có nội dung hay đối tượng chất thể. Vì thế
niềm tin đi theo đức tin. Cũng vậy, thật sai lầm khi cho rằng những niềm tin chỉ
là những gì thuần túy về phía con người. Vì những niềm tin ấy cũng luôn đi kèm
với tương quan cá vị tín thác, tôn
kính và hướng đến Thiên Chúa.
4. Đức tin có sai lầm?
Câu hỏi: liệu rằng việc đón nhận đức
tin có thể đưa ra những mệnh đề (những niềm tin) không được mặc khải nhưng chỉ
là những ý tưởng không? Hay nói cách khác, việc đón nhận đức tin có khi nào
sai lầm không?
Đức tin như là nhân đức hoặc hành
vi của nhân đức siêu nhiên luôn hướng đến chân lý mặc khải, vốn không bao giờ
sai lầm. Nhưng những hành động đức tin chân chính đôi khi có thể đan xen với những
ý kiến sai lầm của con người và những khái niệm còn thiếu sót. Do đó, có thể có
những niềm tin bị nhầm lẫn hoặc mơ hồ trong việc đón nhận mặc khải trong đức
tin.
5.
Về
thuật từ "đức tin Giáo hội"
Khi Giáo hội với quyền tối
cao của mình trong việc công bố Lời Chúa, thì giáo huấn của
Giáo hội phải được chấp nhận nhờ thánh thần và đức tin Công giáo. Không một
giáo huấn nào
khác, dù là không thể sai lầm, được đức tin thiêng liêng chấp
nhận, nếu không được long trọng công bố.
Tuy nhiên, khi quyền bất khả ngộ
khi gắn với đối tượng thứ cấp của đức tin (những chân lý tự nhiên), thay vì gắn
với đối tượng mô thể (chân lý mặc khải) của đức tin, khi ấy câu hỏi đặt ra là
phải gọi tên sự đáp trả mà các tín hữu dành cho nó là gì?
Vì thiếu thuật ngữ, một vài thần học
gia dùng “ecclesiastical faith", vốn không giống như ý
nghĩa mà các giáo phụ đã dùng. “Đức tin Giáo hội,”
như được dùng bởi các tác giả Kinh viện hiện đại này liên quan đến học thuyết "không
được mặc khải". Đó không phải là niềm tin theo nghĩa thần học đầy đủ,
và vì lý do này mà nhiều tác giả muốn tránh thuật ngữ này.
6. Đức tin mang chiều kích giáo hội
Giáo hội là một trong những đối tượng
chất thể của đức tin, Giáo hội là đối tượng đức
tin theo nghĩa là dữ kiện đức tin (credere Deo): vì Thiên Chúa dạy mà ta tin. Giáo hội không phải là đối tượng của đức tin như Thiên Chúa
(credere in Deum, Deum).
Thứ đến, giáo hội cũng là một chứng
nhân của đức tin. Giáo hội với thẩm quyền để phân định điều đáng tin, tính chân
thực của mặc khải, và có vai trò giảng dạy và truyền rao giáo thuyết mặc khải.
Nhờ đó, sự mặc khải của kt giáo được lan truyền một cách đáng tin cậy trong và
qua Giáo hội.
Và Giáo hội là một thân thể - kẻ tin. Các cá nhân dù mang
những khác nhau về bối cảnh và lịch sử, sống và tham gia vào cùng 1 đức tin của
Giáo hội. Giáo hội là môi trường đức tin: chính trong Giáo hội và nhờ Giáo hội mà
ta lãnh nhận ơn đức tin từ Thiên Chúa. Giáo hội cung cấp những tham số/tham chiếu
cho nội dung đt và cho diễn tả đức tin của từng người. Các cá nhân thừa hưởng
và đón nhận đức tin từ giáo hội.
7.
Mặc
Khải Tư
Cần có cái nhìn về mặc khải tư như
thế nào?
Mặc khải tư (nhiều người dùng ngày
nay), hay còn được gọi là mặc khải đặc biệt (CĐ Trent), hay mặc khải riêng
(Particular) mà một số thần học gia sử dụng.
Mặc khải tư không có nghĩa là mặc
khải cho 1 người, nhưng để phân biệt rõ ràng với những mặc khải thuộc về kho
tàng đức tin. Chúng không đề xuất bất kỳ học thuyết mới nào, mặc dù có thể kêu
gọi sự chú ý đến những vấn đề đã là một phần của giáo lý của Giáo hội và thậm
chí có thể thúc giục Giáo hội xem xét liệu một số học thuyết có nằm trong mặc
khải hay không. Cái chúng mang lại thiết yếu là tính thực hành.
[1] Cần phân biệt tư tưởng của một thần học gia với các mô hình ở đây.
Một người có thể theo nhiều hơn 1 mô hình. Cũng như cần để ý đến cách tiếp cận
và các vấn đề mà họ đang quan tâm.
0 Comments:
Đăng nhận xét