Tóm dịch từ: Avery Dulles, SJ, Models Of Revelation, (New York: Doubleday & Company, 1983), 68-83.
Mạc khải
như là kinh nghiệm nội tâm là gì? Ưu và khuyết điểm của mô hình mạc
khải này?
Một câu
hỏi được đặt ra rằng liệu mạc khải có hoàn toàn mang tính khách quan như một điều
gì đó nằm bên ngoài người lãnh nhận, vốn như mô hình xem mạc khải như là giáo
thuyết hoặc như là biến cố quan niệm chăng. Trả lời và phản đối lại quan điểm
trên, một mô hình mạc khải khác phát triển sôi nổi vào thế kỷ XIX quan niệm rằng
mạc khải như là kinh nghiệm nội tâm và chú trọng vào tính chủ quan thay vì yếu
tố khách quan. Bài viết sau đây sẽ khái lược về mô hình này và đưa ra những nhận
xét về ưu và khuyết điểm của nó.
a. Khái niệm Mạc Khải Như Là Kinh Nghiệm Nội Tâm
Trước hết,
mô hình mạc khải này được khái quát qua những phân tích về hình thức, nội dung,
và những tiêu chí để thẩm định về chân lý mạc khải của nó.
Về hình
thức của mạc khải
Với
nguyên tắc nền tảng xem Thiên Chúa vừa siêu việt vừa nội tại, mô hình này cho rằng
Ngài có thể tác động với thụ tạo bất cứ lúc nào (Cv 17,28). Vì là Đấng Thiêng
liêng nên Ngài ngỏ lời trong nội tâm mỗi người. Do đó, mạc khải thiết yếu xảy
ra trong kinh nghiệm nội tâm trực tiếp về Thiên Chúa, Đấng tương quan cá vị với
mỗi người (Friedrich Schleiermacher, Albrecht Ritschl, Wilhelm Herrmann). Hay mạc
khải là sự biểu lộ của Thiên Chúa nơi lòng đạo đức do chính Ngài gây nên (Auguste
Sabatie). Mô hình này đồng hóa mạc khải với kinh nghiệm nội tâm trực tiếp về sự
hiện diện của Thiên Chúa (George Tyrrell), hay với yếu tố thần bí (Evelyn
Underhill và Dean Loge).
Thứ đến,
mạc khải như là kinh nghiệm về Thiên Chúa này vốn trực tiếp và không qua trung
gian. Nó không chỉ là kinh nghiệm của người xưa nhưng còn là kinh nghiệm nội
tâm nơi mỗi cá nhân, lúc này và ở đây. Vì Thiên Chúa nói với mọi người như
nhau, phổ quát, tùy vào sự đón nhận nơi mỗi người mọi thời. Hơn nữa, John Hick còn
cho rằng tất cả những người thuộc các tôn giáo khác nhau đều có kinh nghiệm thần
bí, vì có cùng một Thần Khí. Ai cũng có thể có kinh nghiệm nội tâm, nhưng có những
người trở thành mô mẫu và đặc biệt, kể cả Chúa Giêsu.
Do đó, không
có cái được gọi là mạc khải siêu nhiên. Vì họ xem nó chỉ là những kinh nghiệm
khác thường cấp cao của những kinh nghiệm bình thường (Tyrrell), không có sự
phân biệt, không có người nổi bật hay được tuyển chọn. Sabatier cho rằng thoạt
đầu mạc khải xảy ra cách riêng tư đặc biệt nơi một dân tộc, nhưng dần trở nên
phổ quát chung cho mọi người.
Về nội
dung của mạc khải
Mô hình
này nhấn mạnh rằng đối tượng hay nội dung mạc khải là chính Thiên Chúa. "Chính
sự hiện diện của Ngài trong chúng ta thúc đẩy chúng ta sống công chính và yêu
thương" (Sabatier). Thánh Kinh do đó cũng được xem là sự diễn tả và ghi lại
kinh nghiệm gốc. Sabatier nói rằng kinh nghiệm nội tâm tự nó diễn đạt thành lời
và chữ viết cách tự nhiên, và được ghi chép lại.
Cũng vậy,
quan điểm này xem giáo lý có ý nghĩa là vì giúp khơi gợi lên cảm thức
tôn giáo, chứ chúng không được đồng hóa với mạc khải (Tyrrell). Tương tự như thế,
khi phân biệt giữa đức tin và niềm tin (giữa đón nhận mạc khải và chấp nhận các
giáo thuyết), mô hình này xem tín điều như là lớp vỏ bọc bảo vệ cốt lõi
đức tin tông truyền; tín điều ấy giữ gìn được tính biểu tượng được gợi lên từ
những diễn tả của kinh nghiệm nguyên thủy, dù hữu ích nhưng không phải là chính
mạc khải. Tóm lại, mô hình này cho rằng tôn giáo sẽ bị bóp méo khi đức tin bị
hiểu sai là sự chấp nhận về mặt lý trí những mệnh đề đức tin và những chứng từ
lịch sử hay biến cố (mô hình 1 & 2).
Về thẩm
quyền và tiêu chuẩn xác định mạc khải
Vấn đề được
đặt ra trong mô hình này là "thẩm quyền và tiêu chuẩn để xác định một
kinh nghiệm hay mạc khải là chân thật là gì? "
Có tác
giả cho rằng thẩm quyền cao nhất là Thánh Kinh (Dodd). Tuy nhiên đó không phải là
những mệnh đề được ghi chép lại; nhưng nhờ ngang qua những lời nói, việc làm,
tư tưởng giới hạn và có thể sai lỗi, và đặc biệt nơi Đời sống và Lời Dạy của Chúa
Giêsu được ghi lại đó, mà Thiên Chúa có thể dùng để truyền thông chân lý mạc khải.
Mặt khác có những tác giả cho rằng mạc khải không diễn ra nơi chúng ta nếu không
đụng đến tôi; không có kinh nghiệm cá vị thì nó chưa là mạc khải (Sabatier). Do
đó, thẩm quyền nằm nơi kinh nghiệm cá vị nội tâm chứ không nơi cuộc đời và lời
giảng của Chúa Giêsu. Quyền ấy cũng không thuộc Giáo Hội nhưng nằm nơi mỗi người.
Cụ thể
hơn, tiêu chuẩn đo lường mạc khải chính là sự chân thực trong kinh nghiệm
tôn giáo. Tiêu chuẩn là phẩm chất của kinh nghiệm, không cần phải chứng minh,
vì sẽ không thể hoặc sẽ dư thừa. Kinh nghiệm đó là chân thực khi nâng đỡ và
nuôi dưỡng tâm hồn và lặp lại, mang hoa trái sự sống và an ủi thiêng liêng
(Tyrrell). Hay kinh nghiệm ấy là chân thực khi làm cho lòng bừng cháy, đánh thức
sự đáp trả nơi mỗi người. Không có một danh sách tiêu chuẩn khách quan để xem
đâu là kinh nghiệm đích thực (Dean Loge).
b. Ưu điểm
Có thể
nói trước hết mô hình này giúp tránh được phê bình của Chủ Nghĩa Duy Lý và
tránh được mâu thuẫn với khoa học ngay từ nền móng, khi quan niệm mạc khải đến
từ kinh nghiệm, không phải là chân lý mệnh đề, cũng không phải chân lý khoa học.
Nhưng đặc
biệt hơn cả, mô hình mạc khải như kinh nghiệm thúc đẩy lòng đạo đức và khơi dậy
đức tin cá vị nơi người tín hữu. Mô hình này đặt nặng tâm tình và đề cao đời sống
cầu nguyện, giúp chất vấn đời sống của các tín hữu nếu chỉ lo học kinh, giáo
lý, hay đọc Thánh Kinh suông mà không có tâm tình gặp gỡ Chúa. Hơn nữa,
mô hình này chống lại xu hướng vật hóa điều thiêng liêng quá thô sơ, thay vào
đó giải thích những chân lý đức tin theo nghĩa nhân sinh và trong tương quan.
Vd: Hỏa ngục là tình trạng xa rời, cắt đứt tương quan với Thiên Chúa…
Bên cạnh
đó, mô hình này hỗ trợ đối thoại liên tôn khi có cái nhìn tích cực về tôn giáo
khác, khi cho rằng mọi tôn giáo đều có thể có dấu vết của sự tự mạc khải của Thiên
Chúa.
c. Khuyết điểm
Tuy
nhiên, mô hình này không tránh khỏi những yếu điểm quan trọng.
Thứ nhất,
vì quá nhấn mạnh vào yếu tố kinh nghiệm, xem Thánh Kinh cách chỉ là ghi lại
kinh nghiệm nội tâm của một số người có kinh nghiệm tôn giáo đặc biệt, nên mô
hình này có khuynh hướng đọc Thánh Kinh cách chọn lọc, chỉ chú trọng những đoạn
nói về kinh nghiệm mạc khải. Như vậy, Thánh Kinh cùng lắm chỉ đóng vai trò tham
khảo hay mô mẫu, không đóng vai trò thiết yếu. Dodd phê bình mô hình này khi
cho thấy rằng trong Thánh Kinh, dân được chọn không phải là một dân có kinh
nghiệm tôn giáo, nhưng hoàn toàn ngược lại: phản nghịch, tội lỗi (Mc 2,17).
Thứ hai,
mô hình này đánh đồng kinh nghiệm giữa các tôn giáo, bỏ qua hoặc xem nhẹ vai
trò của các ngôn sứ và đặc biệt là Đức Kitô. Vì cho rằng những khác biệt giữa
các kinh nghiệm tôn giáo là không quan trọng, mọi tôn giáo về bản chất là như
nhau (Maslow), do đó họ xem Đức Kitô chỉ đóng vai trò mô mẫu chứ không phải thiết
yếu của mạc khải. Phản ứng lại, Herrman cho rằng không phải mọi người đều có thể
có kinh nghiệm về Thiên Chúa. Hay với Soderblom, khi phân biệt hai loại kinh
nghiệm thần bí, đã cho thấy rằng mọi tôn giáo đều có kinh nghiệm về Thiên Chúa,
nhưng chỉ Kitô giáo mới có kinh nghiệm về Thiên Chúa cách đặc biệt hơn cả, vì đó
là cuộc gặp gỡ trong tương quan ngôi vị, chứ không phải là một sự vô biên.
Thứ ba,
mô hình này gây xung đột với giáo huấn và truyền thống của Giáo hội. Việc họ xem giáo lý là phụ vì được rút ra từ
kinh nghiệm nội tâm, hay việc tách rời giáo lý khỏi mạc khải, làm nảy
sinh nhiều vấn đề. Vì khó xác định được đâu là kinh nghiệm nội tâm đích thực,
hay chỉ có thể trả lời cách 'mơ hồ' nên mô hình này gây ra chủ nghĩa tương đối
trong việc xác định mạc khải. Nó dẫn đến chủ nghĩa cá nhân khép kín, cực đoan,
mất đi tính toàn thể và hội nhất trong Giáo Hội.
Mặt
khác, mô hình này cho thấy cái nhìn hạn hẹp về kinh nghiệm. Họ quan niệm kinh
nghiệm có tính tự thân và trực tiếp, và đặt kinh nghiệm trên mọi tri thức khác.
Khi ấy mạc khải được hiểu như là một dữ kiện nguyên sơ đi vào con người như là
một bảng trắng (tabula rasa). Đó là hành động của Thiên Chúa và không cần bất kỳ
truyền thống, cộng đồng, hay hình thức trung gian nào khác. Tuy nhiên, các triết
gia gần đây đã chỉ ra sai lầm trong cái nhìn này, họ cho rằng trong bất kỳ kinh
nghiệm nào, chủ thể cũng đã hấp thụ từ bối cảnh sống mà họ đã trải qua, vốn là
những điều kiện định hình nên kinh nghiệm, vốn được chia sẻ bởi cộng đồng như lối
sống và ngôn ngữ. Hơn nữa, Dupre cho rằng kinh nghiệm bao giờ cũng đi cùng với
sự diễn dịch.
Kết luận
Tóm lại,
mô hình này quan niệm mạc khải xảy ra trong kinh nghiệm nội tâm, vốn trực tiếp
và không qua trung gian. Nội dung mạc khải không phải là giáo lý hay những biến
cố đã qua nhưng là chính Thiên Chúa truyền thông chính mình Ngài. Do đó, thái độ
đáp lại mạc khải là thái độ thiêng liêng của con tim yêu mến, chứ không phải là
sự chấp nhận các giáo thuyết hay trở lại với biến cố.
Mô hình
này nhấn mạnh vào chiều kích chủ quan của mạc khải, giúp mang đến nhiều giá trị
tích cực để hiểu về mạc khải cũng như giúp phản tỉnh lại đời sống đức tin nơi
người tín hữu. Vì mạc khải không phải là thông tin nhưng là chân lý cứu độ, phải
được đón nhận bằng vâng phục đức tin, niềm hy vọng và lòng yêu mến trong tương
quan cá vị với Thiên Chúa (DV 1). Tuy nhiên, mô hình này đi đến thái quá khi đặt
nhẹ hay lơ bõ vai trò của Thánh Kinh, giáo huấn, giáo lý, và đặc biệt là chính
Đức Giêsu Kitô. Trái lại, Đức Kitô phải luôn là trung tâm, điểm tới, và là sự viên
mãn của mạc khải, và không còn mạc khải nào khác nữa (DV 4).