Trong vài thập kỷ gần đây, những cử hành chúc lành bị bỏ quên trong việc tái suy tư thần học và áp dụng mục vụ trong đời sống giáo hội. Hơn nữa, nhiều người cho rằng nghi thức chúc lành không phải là thiết yếu trong thực hành tôn giáo.
Hòa với tinh thần canh tân phụng vụ, cách riêng việc canh tân và áp dụng cử hành chúc lành trong bối cảnh hôm nay, bài viết trước hết tìm về khởi điểm và nhìn lại chặng đường phát triển của cử hành chúc lành với cột mốc quan trọng là Vatican II. Tiếp đến là một vài đúc kết suy tư thần học, và cuối cùng đi đến những phản tỉnh về việc áp dụng mục vụ cử hành chúc lành trong bối cảnh hiện nay.
Dẫn Nhập
Những cử hành chúc lành là các á bí tích, gồm các chúc lành
cho người, cho các sự vật, cho các nơi chốn (GLHTCG #1671), vốn được quy định
trong sách De benedictionibus[1]
cũng như xuất hiện trong các cử hành bí tích, trong lời chúc lành cuối thánh lễ…
Một vài cử hành chúc lành cụ thể như là việc thánh hiến các trinh nữ, nghi thức
khấn hứa sống bậc tu trì, và chúc lành cho những người đọc sách, giúp lễ, giáo
lý viên; cung hiến hoặc làm phép nhà thờ hay bàn thờ, làm phép dầu thánh, làm
phép chuông; bố mẹ chúc lành cho con cái, chúc lành trên của ăn,… (GLHTCG #1672).
Trong vài thập kỷ gần đây, những cử hành chúc lành bị bỏ quên
trong việc tái suy tư thần học và áp dụng mục vụ trong đời sống giáo hội. Hơn nữa,
nhiều người cho rằng nghi thức chúc lành không phải là thiết yếu trong thực
hành tôn giáo.[2]
Do đó, hòa với tinh thần canh tân phụng vụ, cách riêng việc
canh tân và áp dụng cử hành chúc lành trong bối cảnh hôm nay, bài viết trước hết
tìm về khởi điểm và nhìn lại chặng đường phát triển của cử hành chúc lành với cột
mốc quan trọng là Vatican II. Tiếp đến là một vài đúc kết suy tư thần học, và
cuối cùng đi đến những phản tỉnh về việc áp dụng mục vụ cử hành chúc lành trong
bối cảnh hiện nay.
1. Nguồn gốc của cử
hành chúc lành
1.1. Kế thừa từ truyền
thống Do Thái
Trước hết có thể thấy rằng cử
hành chúc lành đã xuất hiện nơi truyền thống văn hóa cổ xưa trong và ngoài xã hội
Do Thái. Cử hành này xuất hiện trong nhiều nền văn hóa khác nhau, nhưng khi người
Ít-ra-en cử hành, họ đã chuyển từ niềm tin đa thần sang niềm tin rằng chỉ có
Ya-vê [יהוה] Thiên Chúa là nguồn ban lại cho con người các ơn lành. Nghi thức
chúc lành khi ấy được cử hành long trọng hoặc trong hoàn cảnh đời thường. [3]
Ở đây ta bắt gặp một ý nghĩa
quan trọng và gây ngạc nhiên về cử hành chúc lành. Về mặt từ vựng,
từ berakhah (sự chúc lành) trong
truyền thống Do Thái là danh từ phát xuất từ gốc động từ “brk” [ברך], vừa có
nghĩa là sụp lạy và cầu xin, vừa là chúc tụng và ca ngợi.[4] Ở hình thức động
từ, “chúc lành” khi xuất hiện ở thể phân từ quá khứ thụ động (barukh), nghĩa là được chúc lành. Nhưng
từ này thường xuyên hơn xuất hiện ở thể chủ động, để chúc lành cho người bề dưới
hay cho đối tượng ngang hàng. Đặc biệt từ này còn được dùng để chúc lành cho cả
đối tượng bề cao hơn. Ở hình thức danh từ,
berakhah vừa mang nghĩa một món quà cho đi và nhận được, trong tương quan với
Đức Chúa và với thế giới.[5]
Vì thế, có một điều nghịch lý
và thú vị ở đây là con người (thụ tạo) lại “brk” cho Thiên Chúa. Lý do là vì berakhah chính là cách thích hợp nhất để
diễn tả lòng biết ơn và tôn kính lên Người. Con người “brk” Thiên Chúa là vì con
người chẳng có gì để dâng lên Chúa, cử chỉ này chính yếu diễn tả một tương quan
sự sống giữa con người và Thiên Chúa, con người ca ngợi và tạ ơn vì lòng quảng
đại của bên trên đổ xuống trên mình.[6]
Đỉnh cao của nghi thức chúc
lành trong truyền thống Do Thái nằm trong Kinh
Tạ Ơn Barakhah (Berakhah Blessing). Chúng ta bắt gặp ở đây công thức chung
của mọi chúc lành: nhận thức sự tốt lành và cao cả của Chúa, và Tán Tụng Ca. Tóm
lại, việc chúc lành không phải trước hết và trên hết là việc đòi hỏi Chúa ban
cho sức khỏe, mạng sống, sự bảo vệ và ân sủng. Nhưng đúng hơn, nghĩa ban đầu và
căn nguyên hơn của từ berakh là gọi
tên và tuyên xưng Chúa quyền năng cao cả, và dâng lên Ngài lời ca ngợi, tôn
kính và tạ ơn Người. Chỉ sau năng động hướng lên đó, mới đến nhu cầu và mối bận
tâm của con người.[7]
1.2. Trong Cựu Ước
Cũng vậy, cách riêng Kinh
Thánh Cựu Ước cho thấy nhiều ý nghĩa và nghi thức của cử hành chúc lành. Từ "chúc
lành" xuất hiện khoảng 400 lần và là một trong những từ xuất hiện thường
xuyên trong Cựu Ước.[8] Trong sách Sáng Thế, Chúa chúc lành cho muôn vật, con
người, và thế giới thụ tạo (St 1,22). Sinh sôi nảy nở, sức khỏe, tuổi thọ, của
cải, danh dự… là những dấu hiệu được chúc phúc (St 30,23). Bên cạnh đó các tổ
phụ cũng chúc phúc cho con cháu của mình: I-sa-ac chúc lành cho Gia-cóp (St
27). Mặt khác, có một vài người còn được Chúa trao quyền để chúc lành cho dân
như các tư tế (1 Sb 23,13). Tóm lại, trước hết chính Đức Chúa chúc lành cho con người và thứ đến con người cầu xin sự
chúc phúc và chia sẻ với người khác ngang qua lời cầu nguyện. Con người chúc
lành và thánh hiến những đồ vật.
1.3. Trong Tân Ước
Tiếp đến, cử hành chúc lành
được duy trì và có những thay đổi về mặt ý nghĩa trong Tân Ước. Vì lẽ phụng vụ
và đời sống đức tin của Kitô Giáo được kế thừa và cưu mang từ Do Thái Giáo.[9] Dù rằng Tân Ước không có đầy đủ những bản văn rõ ràng
mô tả cử hành chúc lành, nhưng những hình ảnh và hành vi chúc lành thể hiện ở
nhiều nơi và bao hàm phần lớn ý nghĩa của cử hành chúc lành trong Cựu Ước (Lc
1,64; 1,42; 2,28; 1,28 ; 2,34). Đặc biệt, việc chúc lành giờ đây đều nối kết và
quy hướng đến Chúa Giêsu.
Trước hết, việc chúc lành là
hành vi và thái độ ca ngợi và tạ ơn Chúa. Từ ngữ Hy Lạp eulogia trong Tân Ước giống như barakhah
có nhiều nghĩa như “chúc tụng” Chúa, và nài xin một phúc lành hay một ơn nào đó
từ Chúa. Chúa Giêsu mở đầu lời cầu nguyện rằng "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất,
con xin ngợi khen Cha (Mt 11,25-26). Đặc biệt, Chúa Giêsu chính là phúc lành trọn
hảo nhất của Thiên Chúa cho con Người. Trình thuật Chúa Giêsu thiết lập bí tích
Thánh Thể được xem là sự biến đổi nhất của khái niệm chúc lành. Vì giờ đây, phúc lành được quy hướng về chính Ngài, là
ơn cao trọng nhất, trọn vẹn nhất mà Chúa Cha ban cho nhân loại (Mt 26,16; Mc
14,22; Lc 22,19).[10]
Bên cạnh việc chúc tụng Chúa
Cha, Chúa Giêsu cũng chúc lành cho nhiều người và nhiều đồ vật khác. Chúa Giêsu
chúc lành cho trẻ em (Mc 10,13-16;…). Người đặt tay chúc lành các môn đệ (Lc
24,50-51). Ngài còn sai các tông đồ đi để chúc lành cho mọi người (Rm 15,29). Mặt
khác, Chúa Giêsu dùng cùng một mẫu berakhah
để chúc tụng và tạ ơn trên bánh và thức ăn như người Do Thái vẫn thường làm (Mt
14,19;…).[11] Tóm lại, việc chúc lành trong Tân Ước tập trung nhiều
vào thái độ ca tụng tạ ơn Chúa Cha, qua mẫu gương Chúa Giêsu. Ngài chính là
phúc lành trọn hảo của Thiên Chúa.
2. Lịch sử phát triển
của cử hành chúc lành trong Giáo Hội
2.1. Trước Vatican II
Điểm nổi bật vào thời giáo hội
sơ khai là việc giáo hội đã đặt những cử hành chúc lành vào cử hành Thánh Thể: cộng
đoàn dâng lời ca ngợi và cảm tạ Chúa, đồng thời xin ơn để thánh hóa bánh và rượu.
Do đó, cử hành Thánh Thể trở thành kiểu mẫu của mọi chúc lành, cả về công thức lẫn
ý nghĩa.[12]
Vào thời Hippolitos, yếu tố
ca ngợi và tạ ơn vẫn chiếm vị trí quan trọng, nhưng có một ít thay đổi dần được
thấy rõ hơn vào giai đoạn phụng vụ Rôma. Ở mức độ nào đó việc chúc lành lúc này
thay đổi từ sự ca ngợi được chuyển dần sang việc thánh hóa, vốn khi ấy được xem
là yếu tố chính và được đưa lên đầu, còn phần vinh tụng ca do đó được đưa xuống
cuối mỗi cử hành.[13]
Đáng chú ý trong khoảng thời
gian dài Trung Cổ, ý nghĩa và cử hành chúc lành có nhiều thay đổi quan trọng. Đầu
tiên, trọng tâm của chúc lành chuyển từ ca tụng tạ ơn thành cầu xin. Lời chúc tụng
bị giảm nhẹ đi và hoàn toàn biến mất trong nhiều cử hành chúc lành. Thay đổi thứ hai là hướng trực tiếp đến
các đối tượng vật chất thay vì đến con người liên quan. Lý do là vì xem các đồ
vật với bản chất không tốt và thế giới bị giam cầm bởi quyền lực sự dữ nên cần
được thánh hiến và khử trừ ma quỷ.[14]
Trong giai đoạn từ 1614 đến
1952 đã có rất nhiều những phiên bản của sách phụng vụ Rôma (Rituale
Romanum) được xuất bản. Cuốn Roman
Ritual do đức Phaolô V ban hành năm 1614 đã loại bỏ nhiều cử hành chúc
lành, để lại 28 nghi thức mà phần lớn hướng đến các đồ vật. Các phiên bản phụng
vụ khác nhau sau đó có số lượng các chúc lành cũng thay đổi với mối quan tâm
chính là cầu xin ơn giải thoát cho những đồ vật khỏi sự nô lệ và hư hoại. Mãi
cho đến trước Công Đồng Vatican II, bản Rituale
Romanum được ban hành bởi đức Giáo Hoàng Pi-ô XII năm 1952 đã đặt những cử
hành chúc lành trở thành một phần mới (Phần IX) với tựa đề là “De benedictionibus”, bản này có 179 cử
hành chúc lành.[15]
Tóm lại, trong truyền thống
Tây Phương, yếu tố vinh tụng ca (anamnesis)
theo thời gian ít được nhấn mạnh, nhưng nhấn mạnh hơn vào phần cầu khẩn (epiclesis).[16] Vì thế, giáo hội Tây Phương ắt hẳn được kêu gọi canh
tân qua việc phản tỉnh trên truyền thống phụng vụ của 'người anh em' Đông
Phương về khía cạnh này.
2.2. Vatican II -
Canh tân
Cho đến Công Đồng Chung
Vatican II, giáo hội nhận thấy một nhu cầu rất lớn cần canh tân phụng vụ cách
chung và cách riêng canh tân các nghi thức chúc lành. Nguyên tắc hướng dẫn phổ
quát giáo hội đưa ra là nghi thức phải chiếu tỏa nét đơn sơ cao quý, phải ngắn
gọn dễ hiểu và tránh những trùng lắp vô ích, phải thích ứng với tầm lĩnh hội của
các tín hữu (SC 34). Các á bí tích cũng phải được duyệt xét lại với định hướng
căn bản là làm sao cho các tín hữu dễ dàng tham dự cách ý thức và tích cực, đồng
thời lưu tâm đến những nhu cầu đương thời (SC 79).
Cách cụ thể, cần có thái độ
không xem nhẹ các á bí tích hay các cữ hành chúc lành. Vì các á bí tích quy hướng
về các bí tích, giúp người nhận lãnh hoa trái của các bí tích, và có mối quan hệ
mật thiết với phụng vụ của Giáo Hội. Không thể so sánh bí tích và á bí tích về
hiệu quả của chúng, nếu không sẽ xem nhẹ các á bí tích như những thế kỷ gần
đây. Các á bí tích hay việc chúc lành sẽ giúp người tín hữu sống đức tin và
thánh hóa mỗi biến cố của cuộc sống và môi trường sống của mình.[17]
2.3. Sau Vatican II –
Thực hiện canh tân
Ngay sau Vatican II, việc
canh tân phần phụng vụ các phép lành được thúc đẩy tiến hành. Hưởng ứng kêu gọi của SC 79, nghi thức về các phép lành được xét duyệt. Mãi cho đến
ngày 31 tháng 5 năm 1984, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mới ban hành một bộ
nghi thức về các phép lành. Được xuất bản như là một cuốn nghi thức riêng, lấy
lại tựa đề như trước là “De Benedictionibus”.[18] Cuốn sách là một công trình công phu và khá dày, bản
La-tin dày khoảng 545 trang, bao gồm rất nhiều nghi thức chúc lành. Đặc biệt, sách
nghi thức chúc lành này đáng chú ý khi có thêm phần hướng dẫn chung ở đầu (số
1-39), cũng như nhiều những hướng dẫn khác trong từng nghi thức riêng biệt, để
giúp hiểu và áp dụng cho cả những người giáo dân. Trong bản De Benedictionibus này, yếu tố bảo vệ chống
lại ma quỷ phần lớn vắng bóng.[19]
3. Bàn về thần học của
cử hành chúc lành
Sau khi tìm về nguồn và đi lại
hành trình phát triển của cử hành chúc lành trong lịch sử giáo hội, phần tiếp
theo sẽ bàn về một vài điểm nhấn thần học của cử hành chúc lành khi hiểu áp dụng
chỉ dẫn của sách De Benedictionibus
và tinh thần canh tân sau Công Đồng Vatican II.
3.1. Tâm tình ngợi
khen và cảm tạ Chúa trước và trên hết
Đầu tiên, tâm tình ca ngợi tạ
ơn Chúa phải là yếu tố chính yếu và trung tâm của mọi cử hành chúc lành. Ắt hẳn
như vậy, số giáo lý 1671 khi đề cập đến phép lành đã nói rằng: “Mọi phép lành đều là lời ca ngợi Thiên Chúa
và lời cầu nguyện để đạt được các hồng ân của Ngài.” Mọi sự
chúc lành dù là trên người và mọi vật thì kỳ cùng phải là lời cầu khẩn và tạ ơn
Chúa, nhận ra và ý thức rằng tất cả đã được Chúa chúc lành, từ việc tạo dựng
cho đến công trình cứu độ của Người, vì Chúa là nguồn của mọi phúc lành (GI 1).[20] Hay
nói cách khác, việc cầu xin và tạ ơn kết chặt và không thể tách rời nhau.
Do vậy, việc chúc lành phải luôn gắn chặt và được định hình bởi bí tích Thánh Thể. Vì mầu
nhiệm đỉnh cao trong cử hành này chính là phúc lành tuyệt hảo nhất của Thiên
Chúa, là chính Con Một được tặng ban cho nhân loại. Trong Kinh Nguyện Thánh Thể,
từ “bless” xuất hiện khoảng 15 lần cũng cho thấy điều ấy.[21] Hơn nữa, thánh lễ được mở và đóng bằng một phép lành,
nhưng kế đó là một lời sai đi để người tín hữu sống chiều kích thánh lễ nối dài
trong đời sống của mình. Mọi phúc lành khác trong đời sống đều hướng về và tham
dự vào phúc lành Thánh Lễ.
3.2. Tính tham dự của
cộng đoàn
Thứ đến, cử hành chúc lành phải được nhấn mạnh hơn ở yếu tố
tham dự. Nhiều cử hành chúc lành ngày nay (làm phép ảnh tượng…) chỉ chú ý đến
các hành vi và tiến trình theo công thức rập khuôn. Với
những nghi thức đã được xác định trước, người ta thường mắc phải cái nguy hiểm
là dễ lặp lại cách máy móc, thiếu đi yếu tố cốt yếu là thái độ xứng hợp của tâm
hồn (Mt 18,20; SC 7). Vì thế cần làm sao để hiểu và cử hành có ý
thức và tâm tình, đòi hỏi cả hai yếu tố ex opere operantis và ex
opere operato. Nghĩa là cần chuyển trọng tâm của cử hành chúc lành sang người
tham dự hơn là chỉ tập trung vào công thức và những vật được chúc lành.[22]
Yếu tố tham dự của toàn thể
cộng đoàn cũng phải được để ý hơn. Đức Hồng Y Ratzinger nói rằng tinh thần canh
tân phụng vụ sau Vatican II có những điểm nhấn nhưng yếu tố tham dự của cộng
đoàn theo ngài phải là yếu tố trọng tâm.[23] Nhiều cử hành phúc lành ngày nay cho thấy linh mục
hay chủ tế thường đóng vai trò một mình, thậm chí khi có nhiều người tham dự. Để
canh tân, phụng vụ phải được cử hành chung với sự tham dự đông đảo và tích cực
của giáo dân”, “phải ưu tiên cho cử hành cộng đồng hơn là cử hành một mình hoặc
riêng tư” (SC 27). Trong những cử hành chúc lành bất ngờ không có cộng đoàn
tham dự, cần ý thức mình nhân danh hội thánh (GI 17).
3.3. Cần thay đổi thế
giới quan
Ở một khía cạnh khác, xu hướng
thế tục và sự phát triển của khoa học kỹ thuật còn khiến cho Chúa - nguyên lý đệ
nhất ngày càng bị giảm nhẹ, thay vào đó đề cao cái tôi. Hay do chính vòng xoáy
của công việc và nhịp sống bận rộn, con người dễ quên đi nhu cầu cử hành chúc
lành.[24]
Cụ thể, quan điểm nhân sinh
và vũ trụ quan ngày nay đang gây ra cái nhìn lệch lạc về cử hành chúc lành. Đức
hồng y Ratzinger nhận thấy rằng thần học phụng vụ đang kinh qua một khủng hoảng
về tính bí tích, vốn rời xa thực tế. Lý do là vì não trạng con người ngày càng
vật chất hóa thực tại, con người bị giản lược như là home faber. Vì thế không có một không gian thích đáng cho sự siêu vượt
của thực tại, vốn là cơ sở cho đời sống bí tích.[25] Cũng vậy, giáo hội đã đang trải qua não trạng đậm
tính nhị nguyên: xem tinh thần đối lại cái vật chất và có cái nhìn bi quan về tự
nhiên.[26] Với điểm khởi như vậy con người khó có thể hiểu được
làm sao “thực tại” này có thể trở thành “thánh” hay là “phúc lành”.
Vì thế việc chúc lành đòi hỏi
một thế giới quan đúng đắn về thụ tạo, cần phục hồi niềm tin rằng ân sủng ở
trong tự nhiên. Thế giới vì là món quà của Thiên Chúa, bày tỏ cho con người sự
tốt đẹp và khôn ngoan của Người. Giáo hội mời gọi mỗi người thực hành việc chúc
lành và mỗi người hãy trở nên phúc lành cho thế giới (GI 8). Thiên Chúa giao
phó cho con người sử dụng những thụ tạo tốt đẹp mà Ngài tạo dựng với sự khôn
ngoan (GI 12).
4. Về việc áp dụng cử
hành chúc lành
Sau đây là một vài phản tỉnh
trong việc áp dụng mục vụ cử hành chúc lành ngày nay.
4.1. Thừa tác viên và nghi thức cử hành
Sách De benedictionibus nhấn mạnh lại vai trò của giáo dân trong nghi thức
chúc lành (GI 18). Tinh thần của sách nghi thức đã không dựa trên nền tảng chức
tư tế thừa tác nhưng là chức tư tế phổ quát, chức tư tế chung của mọi tín hữu
khi được rửa tội (GI 17; hay GLHTCG #1669). Thiết nghĩ, giáo hội cần giúp người
tín hữu cần ý thức rằng họ cần cử hành việc chúc lành trong những gì liên quan
trong cuộc sống gia đình (chúc lành cho thức ăn, gia đình, trẻ em, căn nhà,…); cử
hành này không chỉ dành riêng cho các giáo sĩ. Làm sao để mọi khoảnh khắc và biến
cố, người tín hữu có cơ hội để tạ ơn Chúa, để xin ơn trợ giúp (GI 13-14).
Cần có những hướng dẫn trước
các bài đọc, lời giảng dạy của chủ tế, và những khoảng lặng để giúp người tham
dự hiểu về ý nghĩa của việc chúc lành (GI 20, 21). Thừa tác viên cần hướng dẫn
cho người tham dự ý nghĩa quan trọng của việc chúc lành, có thể trong lúc cử
hành hay trong các giờ giáo lý trước đó, chặn đứng những nguy cơ làm thay thế đức
tin chân chính bởi những yếu tố mê tín và cách hiểu nông cạn (GI 19). Đặc biệt,
thừa tác viên phải giúp gợi lên cho người tham dự tâm tình chúc tụng tạ ơn cách
trước hết. Nếu như nghi thức chúc lành được cử hành chỉ có phần chính là kinh
nguyện chúc lành, dấu thánh giá hay rảy nước phép, thì thật là khó để giúp mọi
người hiểu được ý nghĩa của nó.
4.2. Về Tên Gọi Sách De
Benedictionibus
Hiện tại giáo hội Việt Nam,
hay cách riêng Ủy Ban Phụng Tự, chưa công bố một ấn bản chính thức để dịch và
áp dụng cuốn De Benedictionibus. Nhìn
chung, phần lớn các nghi thức chúc lành trong sách De Benedictionibus vẫn chưa được phổ biến và cử hành tại giáo hội
Việt Nam. Đây có thể là một nguyên nhân khiến cử hành chúc lành khá mờ nhạt và
vắng bóng trong đời sống đức tin và tâm thức của người tín hữu Việt.
Mặt khác, chữ “phép” trong tiếng
Việt hiện tại dễ gây hiểu sai về bản chất và ý nghĩa của cử hành chúc lành.
Sách Từ Điển Công Giáo định nghĩa từ “Sách
Các Phép” dịch từ benedictionale,
hay祝福 禮典 (Chúc Phúc Lễ
Điển). Sách Các Phép là tập hợp
những cử hành bí tích và các á bí tích trong đó có các chúc lành.[27] Từ Điển Công Giáo cũng dịch chữ "benedictio" và "bless" hay 祝福 (chúc phúc) là “làm phép”;
“phép” (法) là “nghi thức
tôn giáo” hay “bí tích”. Làm phép
là đặc ngữ Công Giáo chỉ việc cử hành một số á bí tích liên quan đến việc chúc
lành.[28] Tuy nhiên, từ “phép” phần lớn mang nặng ý nghĩa huyền
nhiệm, thần bí, và đặc biệt mang yếu tố bùa phép, phép thuật, hay mê tín.[29] Hoặc có khi có cả hai nghĩa tôn giáo và mê tín.[30]
Bên cạnh đó, chắc chắn chữ
“phép” này chỉ diễn tả một trường nghĩa từ trên xuống, từ 'thần' xuống trên con
người, thiếu chiều kích hướng lên – ca tụng và tạ ơn. Điều này lý giải tại sao
trong tiếng Việt, cần bổ sung thêm các thuật từ khác để cùng dịch về một từ
“brk” hay “benedictio” như: chúc
lành, chúc tụng, giáng phúc, phép lành,…[31] Do đó, việc xem xét lại cách dịch thích hợp cũng như
làm thế nào để giúp mọi người hiểu đúng và hiểu đủ nội hàm của của cử hành là điều cần thiết, không thể tách biệt
cử hành 'làm phép' với năng động ca ngợi tạ ơn.[32] Nhờ đó, giáo hội Việt Nam có thể áp dụng và sống cử
hành chúc lành cho đúng và sinh ích lợi hơn.
4.3. Về việc xin ơn
và 'làm phép' đồ vật
Ngày nay, bên cạnh phần tín hữu
nguội lạnh và xa lạ với những cử hành chúc lành, có hiện tượng rất nhiều giáo
dân và và cả người ngoại đạo đổ xô đến các trung tâm hành hương hay gặp ai đó để
khấn vái và xin ơn. Tuy nhiên, mỗi người rất cần phản tỉnh lại những cử hành
chúc lành này để điều chỉnh những lệch lạc nếu có vốn làm biến dạng hay giết chết
đức tin tinh tuyền. Một trong những câu hỏi cần được suy gẫm: cử hành đó có
giúp người tín hữu gia tăng cảm thức đức tin và cảm nghiệm được Chúa như là người
Cha yêu thương, để tâm hồn được đầy tràn lòng tạ ơn và ca ngợi Chúa không, hay
chỉ đơn thuần đang tìm kiếm điều gì khác để bù lấp khoảng trống sợ hãi hay ham
mê thế tục tạm thời, đang
nô lệ cho kiểu thờ phượng “cái tôi” chứ không phải “Thiên Chúa”?[33] Cũng
như mọi người cần tránh sự hiểu lầm
nguy hiểm cho rằng đồ vật nào đó chứa đựng ơn thánh.[34]
Kết luận
Trong giới hạn và điểm nhắm của
bài viết là đào sâu ý nghĩa của cử hành chúc lành cũng như đưa ra một vài gợi ý
mục vụ, hành trình vừa qua giúp nhận ra rằng cử hành chúc lành là một năng động
hai chiều. Trong đó tâm tình chúc tụng và tạ ơn là bản chất không thể thay đổi
của những cử hành chúc lành, vì nhận ra Tình Yêu của Người vẫn luôn đỗ trào
tràn trong cuộc đời của mình, để rồi khiêm tốn cầu xin và chờ đợi ơn trợ giúp
và thánh hóa, để sống trong niềm tín thác, bình an, và bác ái.
Sống tâm tình canh tân phụng
vụ theo lời mời gọi của giáo hội, thiết nghĩ giáo hội Việt Nam và mọi người tín
hữu cần được hiểu hơn về ý nghĩa và ích lợi của cử hành chúc lành, để rồi từng
bước áp dụng trong đời sống cách phổ biến và tham dự cách ý thức hơn. Sao cho
trong tâm trí và môi miệng luôn vang lên lời chúc tụng tạ ơn Chúa, và trở thành
một phúc lành cho anh chị em mình và cho thế giới tạo thành.
Thư Mục Tham Khảo
Adam, Adolf. Foundations
of Liturgy: An Introduction to Its History and Practice. Minnesota: The
Liturgical Press, 1992.
Kaczynski, Reiner. “Blessings in Rome and the Non-Roman
West”. In Handbook For Liturgical Studies,
Volume IV, Sacraments and Sacramentals, edited by Anscar J. Chupungco, O.S.B. Collegeville Minnesota: The Liturgical Press, 2000.
Các Tự Điển
Các tham chiếu
GI General Introduction - Phần dẫn nhập của
sách De Benedictionibus. Trích trong Lysik,
David A., ed. The Liturgy Documents – A
Parish Resource, Volume Two. Tran. by Paul F. Ford. Chicago: Liturgy
Training Publications, 1999, 345-361.
[1]
Sách Nghi Thức Chúc Lành; sách sẽ được trình bày trong các phần sau.
0 Comments:
Đăng nhận xét