Dẫn
nhập:
[Catholic Science & Life] Khoa Học Công Giáo và Đời Sống / Link: https://doi.org/10.54855/csl.
Có thể nói rằng nền thần học Công Giáo nói chung và thần học luân lý nói riêng đã có nhiều chuyển biến quan trọng xoay quanh cột mốc Công Đồng Vaticanô II.[1] Theo nhận định của Richard Gula, trong bước chuyển (shift) ấy, con người trở thành điểm khởi thích hợp cho việc triển khai ý nghĩa luân lý tổng quát, cũng như cho việc cung cấp những chuẩn mực nền tảng cần thiết cho những vấn đề liên hệ đến phần luân lý chuyên biệt.[2] Trong bối cảnh của những bước chuyển và thay đổi ấy, các câu hỏi có thể được được đặt ra là "tại sao nền thần học luân lý trước Vaticanô II cần được canh tân và canh tân như thế nào", "hình ảnh về con người đã biến chuyển ra sao" và "sự biến chuyển thể hiện trong nền thần học luân lý mới như thế nào"?
1. Nền luân lý trước Vaticanô II
1.1. Một nền luân lý hành vi
Nhiều thần học gia, và cách riêng John Mahoney trong tác phẩm
The Making of Moral Theology, đã nhận
định rằng truyền thống lâu dài của nền thần học luân lý trước Vaticanô II đã
tập chú vào hành vi và đặc biệt vào tội.[3]
Nhưng nhận định này đến từ đâu và cần được hiểu như thế nào?
Quá trình khảo cứu cho thấy truyền thống luân lý của Giáo Hội
chịu ảnh hưởng bởi thánh Augustinô với nền luân lý quá chú trọng đến tội. Với
kinh nghiệm cá nhân, thánh Augustinô mô tả con người rằng vì do hệ quả của
nguyên tội, nên bản tính bị suy yếu - bị tổn thương, do đó luôn có xu hướng rời
xa Thiên Chúa. Biểu hiện rõ nhất của tình trạng này chính là những nổi loạn của
thân xác. Chính vì thế, ngài xem
tính dục là hậu quả của nguyên tội. Bên cạnh đó, với ý
chí bị tổn thương do nguyên tội, con người thường có khuynh hướng chọn điều ít
thiện thay vì Thiên Chúa, Đấng Thiện Hảo. Kết quả là con người luôn trong tình
trạng ngụp lặn trong tội. Nền luân lý trong quan niệm của ngài có thể nói đã bị
ám ảnh bởi tội, chú tâm vào tội; và quan điểm này phần nào ảnh hưởng lâu dài
trong Giáo Hội cho tới ngày nay.[4]
Đặc biệt hơn, nền luân lý Giáo Hội
theo dòng lịch sử phát triển đã chịu ảnh hưởng bởi nền luân lý thủ bản (manual
morality) kể từ khi việc thực hành xưng tội riêng xuất hiện khoảng thế kỷ VI.[5] Trong Giáo Hội sơ khai, hình thức xưng tội là công khai
và được cử hành một lần duy nhất trong đời. Hình thức xưng tội riêng lần đầu
tiên xuất hiện trong các đan việt vùng Ái Nhĩ Lan, sau đó lan rộng và được áp
dụng rộng rãi nơi các cộng đoàn giáo dân. Dù nhiều khi phẩm trật giáo quyền
không chấp thuận, nhưng sau đó thực hành này vẫn tồn tại và được Công Đồng
Lateran IV (1215) ấn định khi buộc các tín hữu xưng tội ít nhất mỗi năm một lần
trong mùa Phục Sinh.[6] Khi ấy, những cẩm nang thống hối (Penitentials), các bộ
tổng luận giúp cha giải tội (The Summas for confessors) thời Trung Cổ, các thủ
bản xưng tội (Confesional Mannuals) ra đời để giúp các cha giải tội; và các
linh mục cũng được huấn luyện trở thành cha giải tội... Khuynh hướng này một
mặt mang đến nhiều giá trị tốt đẹp, nhưng đồng thời đã gây nên nhiều hệ luận mà
nhiều nhà thần học đã chỉ ra.[7]
Một dấu mốc khác vốn tác động lên
nền thần học luân lý là phong trào Ánh Sáng (Enlightenment). Sự phát triển của
khoa học kỹ thuật cũng như phương pháp nghiên cứu thực nghiệm đã xem con người
thay vì là một ngôi vị để gặp gỡ trở thành một cái gì đó để nắm bắt. Con người
trở thành một đối tượng khách quan được chia nhỏ. Các nhà vật lý, y sinh học đã
khách quan hóa thân xác, xem thân xác là một đối tượng tách biệt. Khi đó nền
nhân học lại chịu ảnh hưởng nhị nguyên tách biệt thân xác và tinh thần.[8] Cùng với đó, chủ nghĩa Duy Vật đưa đến cái nhìn xem đời
sống con người chỉ là những gì thuộc phần 'xác', là lao động; con người đạt đến
hạnh phúc nhờ vào công trạng và việc làm của riêng họ. Tất cả những khuynh
hướng này đã ảnh hưởng tiêu cực trên nền thần học luân lý như sẽ được chỉ ra
sau đây, vốn như là những dấu chỉ để rồi Giáo Hội nghe thấy một lời mời gọi
canh tân.
1.2. Những 'dấu chỉ'
của lời mời gọi canh tân
Có thể thấy rằng tác động tiêu cực
đầu tiên cũng những khuynh hướng trên là khiến đời sống luân lý chú trọng vào
hành vi (Morality of Act). Nền luân lý dần rời xa và mất đi chiều kích 'tu
viện' và thần bí trước đây,[9] thay vào đó đã chú tâm vào hành vi cá nhân. Richard Gula
đã diễn tả rằng nền luân lý này quan niệm những hành động đúng đắn về mặt luân
lý là khi được thực hiện phù hợp với luật và mục đích tự nhiên nơi mỗi người.
Khi ấy, nền thần học luân lý được xây dựng trên những chuẩn mực tuyệt đối và
phổ quát, và được áp dụng chung cho mọi người. Do đó, khuynh hướng này tập chú
mô tả về bản tính con người, nhấn mạnh đến khuynh hướng tự nhiên của các cấu
trúc và chức năng sinh thể lý của con người, và nhấn mạnh vào luật tự nhiên.[10]
Hệ quả khi đời sống luân lý nghiêng
chiều về hành vi, chú tâm để trả lời câu hỏi cần làm gì để tránh tội, là xem
đời sống đức tin thành một phân tích về tội lỗi dưới nhiều hình thức của nó:
thế nào là có tội, tội đó nặng hay nhẹ… Cũng vậy, khía cạnh tư vấn và khuyên
bảo trong vai trò của vị linh mục khi thi hành chức năng giải tội dần yếu đi,
khi chú tâm để xác định liệu hối nhân có phạm tội hay không, cần có hình thức
sám hối nào.[11] Do đó, trọng tâm chính của thần học luân lý là xác định
tội lỗi của các hành vi và các nguyên tắc làm cơ sở cho giải pháp chính xác của
các trường hợp. Chính vì thế, có thể nói rằng nền luân lý khi ấy đã bị ám ảnh
bởi tội.[12]
Thứ đến, việc lượng giá một hành vi
luân lý dựa chủ yếu vào việc xác định sự đúng sai của hành vi, do những khoản
luật rõ ràng và phổ quát chung quy định, đi cùng với những hình thức phạt khác
nhau, khiến tội nhân khó thấy trách nhiệm về đời sống đạo đức của mình. Vì
những câu hỏi của cha giải tội thay vì chú tâm vào đời sống nội tâm, về lý do
sâu xa và sự sai trái của hối nhân, lại chỉ chú ý đến việc làm, nên tinh thần thống hối của tội nhân dễ bị bỏ qua một bên,
mức độ hiểu biết và tự do của họ trong hoàn cảnh ấy dần không được xem trọng.[13] Hơn nữa những mệnh lệnh buộc phải giữ nhiều khi xa rời
thực tại và không thể thực hiện được. Do đó, người ta không thực sự hiểu về
tội, lòng thương xót, và trách nhiệm cá nhân.[14]
Bên cạnh đó, với những hướng dẫn
của cẩm nang giải tội, nền đạo đức được trình bày bằng những thuật ngữ tiêu
cực. Thay vì nói về những điều tốt
cần được tuyên dương, lại nói về những điều xấu cần phải tránh… Do đó, các quy
tắc đạo đức được đóng khung bởi các yêu cầu tối thiểu của đạo đức theo cẩm
nang.[15] Nền luân lý hầu như ngày càng chỉ quan tâm đến mặt đen
tối và không phục tùng của con người.[16] Cũng vậy, các câu hỏi hay được đặt ra là "Tôi đang
làm gì? Có được phép không? Tôi có thể đi bao xa?" Điều này tạo ấn tượng
rằng sống trong giới hạn của luật pháp thực sự là điều mà đời sống luân lý
hướng đến, và nó phản ánh một quan điểm đạo đức theo chủ nghĩa cá nhân, lấy
hành động làm trung tâm, theo định hướng của luật và ý thức về tội lỗi.[17] Dù không bị loại trừ cách hoàn toàn nhưng việc truy vấn
về động cơ hay ý hướng hành vi trở nên thứ yếu. Việc giữ luật trở thành cùng
đích của chính nó.[18] Một lối sống nệ luật và hiểu sai về tinh thần luật.
Tóm lại, như Mahoney nhận định:
truyền thống luân lý của Giáo Hội chịu trách nhiệm nặng nề về việc gia tăng sự
yếu đuối và sợ hãi - ám ảnh về đạo đức nơi con người, với cảm giác tội lỗi và
trừng phạt.[19] Ắt hẳn nền luân lý trước Vaticanô II bên cạnh nhiều điểm
giá trị như đáp ứng được phần nào nhu cầu mục vụ, nhất là mục vụ bí tích Giải
Tội, nhưng đã gây nên những tác động xấu, để rồi Giáo Hội được mời gọi cách
mạnh mẽ thực hiện một bước chuyển khẩn thiết và nền tảng.[20]
2. Vaticanô II: Bước chuyển trong nền
thần học luân lý
2.1. Đặt lại nền tảng
của thần học luân lý
Giáo Hội nhận thấy một nền luân lý
như được trình bày ở trên không giúp ích nhiều cho các tín hữu và cần một cuộc
canh tân sâu rộng. Cuộc canh tân ấy bao hàm lời mời gọi trở về nguồn! Trong
chiều hướng ấy, thần học luân lý cũng được kêu gọi để đặt lại nền tảng cho
mình, và rồi đi đến khẳng định rằng bản chất đời sống luân lý là sự đáp trả của
con người trước lời mời gọi đi bước trước của Thiên Chúa (Veritatis Splendor), là “đáp trả của con người trước
tình yêu Thiên Chúa” (Deus Caritas Est, Dẫn nhập). Do vậy, chính tương quan
Thiên Chúa - con người mới là nền tảng cho đời sống luân lý.
Khi ấy, cách chúng ta hiểu biết về
Thiên Chúa và về chính mình rất quan trọng, và nó ảnh hưởng đến cách chúng ta
tương quan với Ngài. Giáo Hội đã đặt lại câu hỏi về con người, và đâu là ý
nghĩa tối hậu cho hoạt động của con người trong thế giới? (Gaudium et Spes, 11). Khi trở về nguồn mặc khải nơi Thánh Kinh và
Thánh Truyền, Giáo Hội nhấn mạnh chân lý rằng: con người là hình ảnh Thiên Chúa
(imago Dei) (Gaudium et Spes, 12).
Nên có thể nói như Đức Hồng Y Ratzinger, chân lý căn bản làm nền tảng của luân
lý Kitô Giáo là con người được dựng nên giống
hình ảnh của Thiên Chúa.[21] Khi ấy bản chất của luân lý Kitô
Giáo không giới hạn vào việc làm lành lánh dữ, nhưng cách nền tảng hơn nó đòi
hỏi chúng ta phải sống tương quan với Thiên Chúa, xứng với phẩm giá của mình là
hình ảnh của Thiên Chúa: Thiên Chúa thương xót, Tình Yêu, người cha nhân
hậu,…và đặc biệt là hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi.[22]
Cũng chính vì “con người là hình ảnh
Thiên Chúa", thần học luân lý giờ đây chú ý nhiều đến phẩm giá con người.
Chiều kích phẩm giá con người trong Giáo Hội gắn chặt với việc ngày càng hiểu
hơn về 'hình ảnh Thiên Chúa'.[23] Có nhận định cho rằng không có khái niệm nào nền tảng hay
quan trọng hơn "phẩm giá của con người" trong thần học luân lý,[24] vì nhận thấy có rất nhiều văn kiện và giáo huấn Giáo Hội
nhấn mạnh đến điều này như (Laudato Si’, 65; Gaudium et Spes, 40, 41; Dignitas Humanae, 11; Mater et
Magistra, 249; Centesimus Annus, 38; Compendium, 160…). Tất cả đều cho thấy phẩm giá con
người cách nền tảng không phụ thuộc vào những thành tựu của con người, dù có
tội lỗi hay không, giữ luật hay chưa giữ luật, nhưng là vì chính Thiên Chúa yêu
thương và luôn trung tín. Khi ấy Giáo Hội lên án những thế lực và tội ác gây
tổn hại đến phẩm giá con người như khi chống phá thai, bảo vệ chăm sóc trẻ sơ
sinh khuyết tật, và phản ánh các vấn đề về công bằng kinh tế và xã hội, không
phân biệt chủng tộc...[25]
2.2. Những thay đổi quan trọng[26]
Từ khi đặt lại nền tảng, cuộc canh tân thần học luân lý trong
và sau Vaticanô II diễn ra ở nhiều chiều kích mà cách thiết yếu là việc lấy con
người làm trung tâm, con người là "tiêu
điểm". Nếu như nền luân lý trước đây tập trung vào hành vi, ý thức về
tội, việc giữ luật, sống luân lý có tính cách cá nhân như đã nói ở trên, thì
cuộc canh tân sau Vaticanô II chú trọng đến con người. "Tiêu điểm chính
của tất cả những gì Công Đồng trình bày sẽ là con người" (Gaudium et Spes, 3). Đây là một nền luân lý
"nhân vị", "con người - trung tâm" (person -centered), vốn tương
phản với mô hình "hành vi - trung tâm" (act - centered).[27]
Luân lý không chỉ là tránh tội và thực hành tối thiểu điều luật buộc nhưng là
hành trình liên tục đáp lại tiếng mời gọi yêu thương của Chúa, nhắm đến cái
“là” hơn là “làm”. Khi ấy, người tín hữu căn bản được mời gọi sống nhân đức,
sống ơn gọi nên thánh, đặt tình yêu làm trung tâm, là bắt chước Đức Kitô.[28]
Một bước chuyển khác của cuộc canh tân là thay đổi thế giới quan. Nếu như trước đây, ngôn
ngữ nói về con người theo "bản tính" (human nature): những luật phổ
quát khách quan và cố định chung cho mọi người, thì nền luân lý mới còn nhìn
con người trong chiều kích lịch sử tính với hoàn cảnh không thời gian riêng,
trong sự thay đổi với nhiều chiều kích hiện thực như xã hội, chính trị, văn
hóa… Con người luôn được coi trọng trong thần học luân lý Công Giáo, nhưng điểm
nổi bật nhất trong cuộc canh tân là đi việc sử dụng ngôn ngữ về “bản tính” sang
ngôn ngữ về “con người” (human person).[29]
Khi đó, phương pháp
suy tư thần học và những vấn đề luân lý cũng biến chuyển theo. Từ phương pháp
suy diễn (deduction): áp dụng những nguyên tắc trừu tượng tổng quát vào các
hoàn cảnh cụ thể. Phương pháp này cho rằng ta có thể nắm bắt bản tính và cái
tốt của con người cách rõ ràng và chính xác, nhưng ít chú ý tới sự phát triển
của lịch sử và tính phức tạp của kinh nghiệm. Trái lại, phương pháp quy nạp
(induction) nghiêm túc nhìn nhận bối cảnh và tính phức tạp của kinh nghiệm nhân
sinh, chú ý tới các hoàn cảnh của mỗi sự kiện. Đưa ra những phán quyết khiêm
tốn thay vì là tuyệt đối.
Tóm lại, nền thần học luân lý được canh tân đã quay lại và
đặt nền tảng trên tương quan giữa Thiên Chúa và con người, mới hình mẫu là Ba
Ngôi, quan tâm đến con người toàn thể như một nhân vị. Một nền luân lý nhân vị!
3. Một nền luân lý nhân vị
Trong cách nhìn về con người cách tổng thể như là một nhân
vị, sau khi cho thấy yếu tố nền tảng "con người là hình ảnh của Thiên
Chúa", Janssens đã mô tả con người ở trong nhiều chiều kích tổng hòa với
nhau,[30]
và được Richard Gula trình bày lại sau đó.[31]
Nhưng tựu chung lại, tất cả đều cho thấy đời sống luân lý nhân vị cần xem xét
cách thích đáng cả bốn chiều kích tương quan: với Thiên Chúa, với người khác và
thế giới, và với chính mình.
3.1. Ơn gọi làm môn đệ
Như đã nói ở trên, đời sống luân lý là cách con người sống
tương quan với Thiên Chúa mà kiểu mẫu hay lời mời gọi nền tảng là làm môn đệ
Chúa Kitô. Tất cả mọi Kitô hữu được kêu gọi nên
thánh. Ơn gọi ấy bắt nguồn từ bí tích rửa tội, ơn thánh, tác động của Chúa
Thánh Thần, thúc giục người Kitô hữu đáp lại bằng đời sống tin, cậy, mến, được
diễn tả ra qua các hành vi hằng ngày tùy theo điều kiện sinh sống của mỗi
người (Lumen Gentium, 39-42).
Khi ấy, đời sống luân lý không thể chỉ giới
hạn vào việc tránh phạm tội kẻo sa hỏa ngục mà là sống ơn gọi làm môn đệ, một
đời sống nhân đức.[32] Các nhân
đức là trọng tâm của luân lý thời các giáo phụ và thánh Tôma Aquinô, nhưng đã
bị lu mờ đi trong thứ thần học luân lý tập trung vào những hành vi cá biệt,
những danh sách các tội lỗi.[33]
Khi ấy, thần học gia James Keenan cho rằng điều
quan tâm trước hết không phải là hành động, và không nên hỏi 'hành vi này là
đúng hay sai?' và 'đâu là hệ quả của hành vi ấy?'. Nhưng hãy chú tâm trước hết
vào con người, với ba câu hỏi như sau: "Tôi là ai?", "Tôi phải
trở nên người như thế nào?" và "Tôi đạt được điều đó như thế
nào?".[34]
Khi ấy, việc giáo dục không nên chỉ đơn thuần là đào
tạo con người thực hiện các hành vi tốt, thay vào đó nên tập trung vào việc gợi
lên tâm tình và đáp trả xứng hợp đối với lời kêu gọi của Thiên Chúa và củng cố sự
đáp trả đó.[35]
Do đó, không phải những nguyên tắc là điều tối quan trọng, dù
là những yếu tố cần thiết của luân lý, nhưng sâu xa hơn những thực hành thiêng
liêng mới là điều giúp sống và đi theo Đức Giêsu. Tình yêu thương, công lý,
lòng trắc ẩn, lòng biết ơn, hy vọng, sự ăn năn …là những gì Chúa Giêsu đã nói
và đã sống.[36] Khi
ấy, mọi Kitô hữu được mời gọi vươn đến sự thánh thiện và sống đức ái trọn hảo
theo mẫu gương của Đức Kitô. Vì khi sống đức ái (tham dự phụng vụ, cầu nguyện,
từ bỏ mình, nhiệt thành phục vụ anh chị em, và luyện tập nhân đức) là mối dây
liên kết sự trọn lành, là sự viên mãn của lề luật. (Lumen Gentium, 39-42). Cần chống
lại lối sống nệ luật như câu chuyện về anh thanh niên giàu có (x. Mc 10,17-22).
Cũng vậy, nền luân
lý nhân vị thay đổi cái nhìn về tội. Nhiều thần học gia đã chỉ ra giới hạn của
nền luân lý thủ bản như Fritz Tillmann (1874–1953), Gustav Ermecke, Johannes
Stelzenberger, Bernard Haring, Gerard Gilleman, and Rene Carpentier, [37] và Vaticanô II cách cụ thể đã chống lại
cách nhìn về tội "thủ bản". Tội cần được định nghĩa là sự phân rẽ
trong các mối tương quan, với Thiên Chúa, với tha nhân, và chính mình (Gaudium et Spes,
13). Tội không đơn thuần là những hành vi khách quan và giới
hạn vào việc vi phạm điều luật nào đó.[38]
3.2. Chiều kích xã hội - môi sinh
Thứ đến, nền luân lý nhân vị quan tâm đến chiều kích tương
quan giữa con người với nhau, và với thế giới. Điểm khởi luân lý không chỉ là
con người, nhưng còn là "người khác", vì thế chiều kích truyền thống
và cộng đồng phải được xem xét cách toàn vẹn và thích đáng.[39]
Đặc biệt, mối
tương quan nội tại nơi Ba Ngôi Thiên Chúa cho thấy chiều kích tương
quan nền tảng của con người. Chúa dựng nên con người có nam có nữ (St 1, 2-7).
Tự bản tính sâu xa của mình, con người là một hữu thể có tính xã hội và tương
quan (Gaudium et Spes, 12). Do đó, khi mở ra
tương quan với người khác, đối thoại và phục vụ lẫn nhau, con người mới làm
thăng tiến tất cả các khả năng và có thể đáp trả được ơn gọi của mình (Gaudium et Spes, 25).
Khi ấy, mọi người với ơn gọi căn bản được thúc bách trở nên
người lân cận, sống yêu thương và giúp đỡ người khác (Gaudium et Spes, 27). Theo Michael and Kenneth Himes,
nói rằng con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa là công bố con
người có khả năng tự ban tặng. Con người là tạo vật có thể biết ơn sự tự trao
tặng của Thiên Chúa và đáp lại bằng cách trao tặng lại chính mình.[40]
Vị thế, tội không phải là
sự thất bại hay phạm điều gì đó, tội là sự loại trừ khi sống trong tương quan
với tha nhân và thế giới. Cũng vậy, ý
nghĩa
đạo đức của khía cạnh làm người này là chúng ta phải tôn trọng các luật lệ và
thể chế của xã hội nhằm thúc đẩy cuộc sống chung và duy trì công ích.[41]
Như lời Đức Gioan Phaolô II nói:
Hy vọng rằng những
người có trách nhiệm, bằng cách này hay cách khác, lo cho anh em đồng loại có
được một cuộc sống xứng đáng với con người hơn, thì dù có niềm tin tôn giáo hay
không, họ cũng nhận thức đầy đủ về sự cần thiết phải gấp rút thay đổi những
thái độ tinh thần vốn là đặc điểm những mối liên hệ của con người với bản thân,
với tha nhân, với những cộng đồng nhân loại dù xa xôi nhất và với thiên nhiên.
(Sollicitudo Rei Socialis, 38).
3.3. Đề cao tính chủ thể
Nền thần học luân lý canh tân cố gắng xây dựng chủ thể luân
lý để họ tăng trưởng trong “trách nhiệm về mặt nhân bản và về mặt
Kitô hữu” (Gaudium et Spes, 50). Nói rằng con người với tư cách là
một chủ thể nghĩa là con người chịu
trách nhiệm về cuộc sống của chính mình. Con người là một tác nhân đạo đức
với một mức độ tự chủ và tự quyết định trong mức độ nào đó, được trao quyền để
hành động theo lương tâm của mình, trong tự do và với tri thức. Quả thực, không
thể nói đến vấn đề đạo đức nếu không cho thấy người đó có thể hành động với chủ
ý và tự do.[42]
Khi ấy, cần tôn trọng tính độc đáo và duy nhất của mỗi người.
Dù rằng mọi người đều chia sẻ những đặc điểm chung nhất định của bản tính,
nhưng mỗi người lại hành động theo cách khác nhau và ở những mức độ khác nhau.[43]
James Gustafson đã phân tích tính cách đạo đức độc đáo của một người theo những
đặc điểm không thể kiểm soát được và có thể kiểm soát được.[44]
Cho nên, chúng ta chỉ có thể yêu cầu một người chịu trách nhiệm về những gì
liên quan đến năng lực của người đó. Một người chỉ phải chịu trách nhiệm về mặt
đạo đức khi không làm những gì họ có thể làm. Mặt khác, trách nhiệm đạo đức của
một người tương xứng với năng lực của người đó ở mỗi giai đoạn phát triển, với
bối cảnh tổng thể; đời sống luân lý là một tiến trình.[45]
Do đó, nền luân lý nhân vị tôn trọng con người như một tác
nhân tự chủ có khả năng hành động với sự tự do của một lương tâm sáng suốt.
Trách nhiệm chủ quan của một người đối với hành vi đạo đức có liên quan đến sự
phát triển năng lực đạo đức của người đó. Trong bối cảnh mục vụ, lời khuyên của
Bernard Haring phản ánh sự khôn ngoan của Thánh Anphongsô Liguori “Một người
đừng bao giờ cố gắng áp đặt những gì người kia không thể chân thành nội tâm,
ngoại trừ trường hợp ngăn chặn sự bất công nghiêm trọng đối với người thứ ba”.[46]
Khi ấy giáo hội
mời gọi việc đào luyện con người, đào luyện lương tâm. Lương tâm là nơi sâu kín
thánh thiêng mà không một ai hay một thế lực nào có thể xâm phạm (Gaudium et Spes, 16). Vai trò của các nhà thần học gia và các
vị hữu trách trong Giáo Hội có nhiệm vụ đào tạo chứ không thay thế chúng, khi
ấn định một điều gì là đúng hay sai cách rõ ràng trong mọi trường hợp (Amoris Latertia, 37). Vì thế, cần giáo dục và
huấn luyện để người tín hữu hiểu biết hơn về ơn gọi căn bản của mình, hiểu về
giáo huấn Giáo Hội và các điều luật. Nhưng thay vì chỉ dừng lại ở tri thức khái
niệm (conceptual knowledge), cần đi đến tri thức lượng giá (evaluative
knowledge), là tri thức cần phải dấn thân, phải sống, và thực sự hiểu giá trị
và ý nghĩa của nó.[47] Chính hiểu biết này sẽ giúp cho việc đào
luyện lương tâm và sự phán đoán cái đúng cái sai trong hành vi nhân linh của
mỗi người.[48]
Kết luận
Nền thần học luân lý trong và sau Vaticanô II đều có điểm chung là khởi đi từ việc đổi mới cái
nhìn nhân học cũng như xã hội học có trong
Gaudium et Spes, và thay đổi nổi bật
nhất chính là hướng vào chủ thể, tìm thấy trong một nhân tính bị tổn thương.[49] Qua những khảo sát ở trên
có thể thấy rằng Giáo Hội cũng như nền thần học luân lý nói riêng đã nỗ lực để
chuyển mình, cả về chiều kích nền tảng cũng như nhiều phương diện kéo theo.
Trong sự chuyển mình này, cách nhìn về con người có vị trí quan trọng, thậm chí
có thể xem bước chuyển ấy chính là sự thay đổi cách nhìn về con người, khi đi
từ một nền luân lý hành vi sang một nền luân lý nhân vị. Đó là một nền luân lý
đặt nền trong tương quan, tính liên vị, quan tâm đến con người trong hoàn cảnh
sống cụ thể, chú trọng đến phẩm giả, lương tâm, và trách nhiệm đào luyện bản
thân…
Tuy nhiên trong chiều hướng này, nhiều quan điểm và lối sống
ngày nay cho thấy có sự 'cực đoan' khi đề cao tự do tuyệt đối, quyền tự trị của
lương tâm, xem nhẹ những luật phổ quát. Nhiều người
loại bỏ học thuyết truyền thống về luật tự nhiên và không chấp nhận một số giáo
huấn của Giáo Hội; họ cho rằng huấn quyền nếu muốn can thiệp vào lãnh vực luân
lý thì chỉ là để “khuyên nhủ lương tâm”, “đề nghị các giá trị” (Veritatis Splendor, 32. 35).[50] Tuy nhiên, không thể quên rằng thân phận
con người mang bản tính yếu đuối, giới hạn trong tự do và hiểu biết, nên phải
luôn cần được soi sáng nhờ Luật, vốn được ghi khắc nơi bản tính con người, và
nhờ mặc khải (Veritatis Splendor, 44). Do đó, thần học luân lý luôn cần có
hai chiều kích khách quan và chủ quan, gồm những kinh nghiệm cá nhân được nội
tâm hóa, và những giá trị và quy luật đạo đức khách quan.[51]
Hay nói như Gula, cần cả hai cách nhìn về con người, bản tính và nhân vị, cả
lương tâm và huấn quyền.[52]
Hình ảnh về con người và về chính mình có
thể nói là nền tảng cách vô thức hay ý thức tác động lên cách mà chúng ta sống
hay lượng giá một hành vi luân lý. Ước chi khi cùng với Giáo Hội trở về nguồn,
mỗi người cũng trở về với nội tâm sâu thẳm của mình, trong kinh nghiệm tự nhiên
hay thiêng liêng, để khám phá và hiểu hơn về chính mình, để ngày càng canh tân
cái nhìn hiện có, để mở ra và sống tương quan thay vị chỉ loay hoay và bế tắc
trong chính mình. Vẫn là con người "này và ấy", nhưng được mời gọi để
"Thấy mọi sự đều mới trong Đức Kitô".[53]
Với kinh nghiệm như vậy, ước chi các cơ chế
xã hội, các cộng đoàn, và các nhóm … diễn tả được mối tương quan liên vị với
tình yêu thương, thay vì chỉ nhìn thấy những vấn đề và luật lệ. Ước gì những
giờ chia sẻ, các lớp giáo lý, các bài giảng, biết đề cao cái đẹp và giúp hướng tới
đời sống nhân đức, giúp sống trong tương quan thực với Thiên Chúa và tất cả.
Về việc lượng giá hành vi luân lý, giáo huấn
Giáo Hội sau cuộc canh tân đã có những hoa trái tích cực. Việc lượng giá không
chỉ dựa vào việc phân tích cái đúng cái sai của hành vi khi dựa trên luật, vốn
dường như nhiều khi có một khoảng cách không thể xóa bỏ giữa điều mà giáo huấn
dạy bảo với điều kiện thực tại của chính đương sự.[54] Giáo Hội nhận thấy vai
trò của mình không chỉ là người thầy nhưng còn là người mẹ, vừa trình bày giáo
huấn cách khả tín, nhưng vừa có trái tim thấu cảm và lòng thương xót. Giáo Hội
quan tâm tới giới hạn của con người, yếu tố lịch sử, hoàn cảnh giáo dục… Giáo
Hội nói về luật tiệm tiến rằng: khi
không thể đòi hỏi áp dụng tất cả luật luân lý hoàn
toàn và ngay lập tức được, thì cần phải kiên nhẫn giúp người tín hữu tiến tới
từng bước; cần tôn trọng và huấn luyện lương tâm các tín hữu (Familiaris Consortio 9. 34; Amoris Laetitia 37. 303). Sao cho khi
đối diện những hoàn cảnh cụ thể, khó khăn và lưỡng nan, người tín hữu cảm thấy
được Giáo Hội ôm ấp và giúp đỡ để họ "trở nên giống như người môn đệ của
Đức Kitô hơn".
Aguas, Jove Jim S. "Ethics and
Moral Philosophy of Karol Wojtyla". In Kritike, Vol. 7, No. 1 (2013):
115-137.
Brady, Bernard. "The Evolution of Human Dignity in Catholic Morality". In Journal of Moral Theology, Vol. 10, No. 1 (2021): 1-25.
Cahill, Lisa Sowle. "Reframing Catholic Ethics: Is the Person an Integral and Adequate Starting Point?". In Religions (2017): 1-7.
Curran, Charles E. "Strand One: Sin, Reconciliation, and the Manuals of Moral Theology". In The Development of Moral Theology. Washington, DC: Georgetown University Press, 2013.
------------. Catholic Moral Theology in the United States: A History. Washington, DC: Georgetown University Press, 2008.
Dũng OP., Phạm Hoàng. "Thần Học Luân Lý Sau Công Đồng Vatican II: Những Công Trường Thi Công". https://catechesis.net/than-hoc-luan-ly-sau-cong-dong-vatican-ii-nhung-cong-truong-thi-cong/. Đăng nhập ngày 20/5/2022.
Gula, Richard M. Reason Informed by Faith: Foundations of Catholic Morality. New York: Paulist Press, 1989.
Gustafson. Can Ethics Be Christian? Chicago: University of Chicago Press, 1975.
Haring, Bernard. Free and Faithful in Christ, Vol. 1: General Moral Theology. New York: Seabury Press, 1978.
Himes, Michael J. and Kenneth R. Himes. “Rights, Economics, and the Trinity”. In Commonweal 113 (1986).
Janssens, Louis. “Artificial Insemination: Ethical Considerations". In Louvain Studies 8, Spring, (1980): 3-29.
Keenan S.J., James F. Moral Wisdom: Lessons and Texts from the Catholic Tradition, Second Edition. Rowman: Littlefield Publishers, Inc., 2010.
------------. "Current Theology Note: Christian Perspectives On The Human Body". In Theological Studies 55 (1994): 330-346.
------------. “Virtue Ethics”. Thought: Fordham University Quarterly 67, Issue 2 (1992): 115-127. DOI: 10.5840/thought199267221.
------------. "Vatican II and Theological Ethics". In Theological Studies 74 (2013): 166-7.
Lan, Trần Như Ý. Dẫn Nhập Môn Luân Lý Y Sinh Học. Sài Gòn: ĐCV Thánh Giuse, 2020.
Lobo, S.J., George. Guide to Christian Living. Westminster: Christian Classics, 1984.
Mahoney, John. The Making of Moral Theology: A Study of the Roman Catholic Tradition. Oxford: Clarendon Press,1987.
McCormicK, SJ., Richard A. The Critical Calling: Reflections on Moral Dilemmas Since Vatican II. Washington, B.C.: Georgetown University Press, 2006.
O`Neil, Kevin & Peter Black. The Essential Moral Handbook:A Guide to Catholic Living. Missouri: Liguori, 2003.
O'Connell, Timothy. Principles for a Catholic Morality. New York: Seabury Press, 1978.
Spohn, William C. Go and Do Likewise: Jesus and Ethics. New York. London: Continuum, 2007.
Tyler, Peter. "Auricular Confession: The Celtic Gift To The Church". In Perichoresis, Volume 15. Issue 3 (2017): 67–79. DOI: 10.1515/perc-2017-0016.
Vũ, OP., Phaolô Cao Chu. "Những Vấn Đề Luân Lý Hiện Nay Theo Thông Điệp Veritatis Splendor". https://catechesis.net/nhung-van-de-luan-ly-hien-nay-theo-thong-diep-veritatis-splendor/#ftn2. Đăng nhập vào ngày 20/5/2022.
Weaver, Darlene Fozard. The Acting Person and Christian Moral Life. Washington, DC: Georgetown University Press, 2011.
Wogaman, Philip. Christian Ethics: A Historical Introduction, 2n.d. Louisville. Kentucky: Westminster John Knox Press, 2011.
[1] Richard M. Gula, Reason Informed by Faith, 28-38.
[2] Ibid., 63.
[3] John Mahoney, The Making of Moral Theology, 5.
[4] Philip Wogaman, Christian Ethics, 61.
[5] Darlene Fozard Weaver, The Acting Person and Christian Moral Life,
9; John Mahoney, The Making of Moral
Theology, 1; Ở đây, chúng tôi không có ý nói việc xưng tội riêng là xấu, thậm
chí ngay lúc hình thành, với ý nghĩa ban đầu, cử hành xưng tội riêng đã mang đến
nhiều ích lợi cho đời sống thiêng liêng người tín hữu. Nhưng trong dòng lịch sử
phát triển, ý nghĩa của cử hành có sự thay đổi so với ban đầu.
[6] John Mahoney, The Making of Moral Theology, 4; Philip
Wogaman, Christian Ethics, 79.
[7] John Mahoney, The Making of Moral Theology, 4-27.
Peter Tyler, "Auricular Confession: The Celtic Gift To The Church",
75-7.
[8] James F. Keenan S.J., "Current
Theology Note: Christian Perspectives On The Human Body", 340-1.
[9] Philip Wogaman, Christian Ethics, 83.
[10] Richard M. Gula, Reason Informed by Faith, 63. Nói rõ
hơn, luật tự nhiên ở đây được hiểu theo khuynh hướng Duy Tự Nhiên, khi nhấn mạnh
trật tự tự nhiên hơn trật tự lý trí.
[11] Peter Tyler, "Auricular
Confession: The Celtic Gift To The Church", 77.
Từ khi bí tích Hòa Giải được quy luật
hóa trong những thủ bản, việc xưng tội dần mất đi chiều kích đồng hành và tư vấn.
[12] Richard M. Gula, Reason Informed by Faith, 25-26.
[13] John Mahoney, The Making of Moral Theology, 30.
[14] Ibid., 28.32.
[15] Philip Wogaman, Christian Ethics, 83.
[16] John Mahoney, The Making of Moral Theology, 28.
[17] Richard M. Gula, Reason Informed by Faith, 26-27.
[18] Philip Wogaman, Christian Ethics, 84.
[19] John Mahoney, The Making of Moral Theology, 28.32.
[20] Darlene Fozard Weaver, The Acting Person and Christian Moral Life,
12.
[21] Ngài nói với tư cách là Tổng
Trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin trước các ký giả khi giới thiệu sách Giáo Lý trong cuộc
họp báo ngày 9/12/1992.
[22] Richard M.
Gula, Reason informed by faith, 64-6;
James F. Keenan S.J., Moral Wisdom,
123-138; Kevin O`Neil & Peter Black, The
Essential Moral Handbook, 2-22.
[23] Bernard Brady,
"The Evolution of Human Dignity in Catholic Morality", 12.
[24] Ibid., 1.
[25] Richard M. Gula, Reason Informed by Faith, 64-5.
[26] Ibid., 28-39.
[27] Charles E. Curran, "Strand
One: Sin, Reconciliation, and the Manuals of Moral Theology", 144-6;
Darlene Fozard Weaver, The Acting Person
and Christian Moral Life, 9-15.
[28] Richard M. Gula, Reason Informed by Faith, 29. 185-197.
[29] Ibid., 63.
[30] Louis Janssens, “Artificial
Insemination: Ethical Considerations", 3-29.
[31] Richard M. Gula, Reason Informed by Faith, 66-72.
[32] William
C. Spohn, Go and Do Likewise: Jesus and
Ethics, 27.
[33] Phạm Hoàng Dũng O.P., "Thần
Học Luân Lý Sau Công Đồng Vatican II: Những Công Trường Thi Công", https://catechesis.net/than-hoc-luan-ly-sau-cong-dong-vatican-ii-nhung-cong-truong-thi-cong/,
Đăng nhập ngày 20/5/2022.
[34] James F. Keenan S.J.,
“Virtue Ethics”, 84.
[35] George Lobo
S.J., Guide to Christian Living,
348.
[36] William
C. Spohn, Go and Do Likewise: Jesus and
Ethics, 186.
[37] James F. Keenan S.J.,
"Vatican II and Theological Ethics", 166-7.
[38] Charles E.
Curran, "Strand One: Sin, Reconciliation, and the Manuals of Moral
Theology", 25.
[39] Lisa Sowle Cahill,
"Reframing Catholic Ethics: Is the Person an Integral and Adequate
Starting Point?", 4.
[40] Michael J. Himes and Kenneth R.
Himes, “Rights, Economics, and the Trinity”, 139.
[41] Richard M. Gula, Reason Informed by Faith, 67-8.
[42] Ibid., 68.
[43] Ibid., 71-2.
[44] Gustafson, Can Ethics Be
Christian?, 32-47.
[45] Richard A.
McCormicK SJ., The Critical Calling: Reflections on Moral Dilemmas Since
Vatican II, 176.
[46] Bernard Haring, Free and Faithful in Christ, 289.
[47] Timothy O'Connell, Principles for a Catholic Morality,
53-5.
[48] Jove Jim S.
Aguas, "Ethics and Moral Philosophy of Karol Wojtyla",
123.
[49] James F. Keenan S.J., "Vatican
II and Theological Ethics", 190.
[50] Phaolô Cao Chu Vũ, O.P., "Những Vấn Đề Luân Lý
Hiện Nay Theo Thông Điệp Veritatis Splendor", https://catechesis.net/nhung-van-de-luan-ly-hien-nay-theo-thong-diep-veritatis-splendor/#ftn2, đăng nhập vào ngày 20/5/2022.
[51] Jove Jim S.
Aguas, "Ethics and Moral Philosophy of Karol Wojtyla",
134.
[52] Richard M. Gula, Reason Informed by Faith, 73.
161.
[53] Đây là slogan Năm Thánh Inhã của Dòng Tên (năm 2022),
trích từ https://dongten.net/2021/05/20/thay-moi-su-deu-moi-trong-duc-kito/, đăng nhập ngày 20/5/2022.
[54] Với trọng tâm giáo huấn về tính
hợp luân lý của việc làm cha mẹ có trách nhiệm theo phương pháp tự nhiên, và
tính trái luân lý của việc ngừa thai nhân tạo, Thông Điệp Humanae Vitae (1968) bên cạnh những khen ngợi và tán
thành, bị nhiều thần học gia khác xem là xa rời thực tế, đặt gánh nặng lên các
cặp vợ chồng, thiếu sự đồng cảm. Xem Trần
Như Ý Lan, Dẫn Nhập Môn Luân Lý Y Sinh Học, 333.
Đọc thêm một bài
viết khác để thấy được sự biến chuyển của giáo huấn Giáo Hội: "HIV/AIDS,
Bao Cao Su, Và Giáo Huấn Của Giáo Hội Công Giáo Rôma", trong Trần Như Ý Lan, Dẫn Nhập Môn Luân Lý Y Sinh Học, 400-411.
0 Comments:
Đăng nhận xét